Giao mùa, bệnh lý xương khớp lại gia tăng. Ngoài việc chăm chỉ tập luyện, người bệnh có thể tham khảo dùng một số bài thuốc đông y sau trị chứng đau xương khớp.

Bài 1: Hoài sơn, khiếm thực, tỳ giải, cẩu tích, hà thủ ô, thiên niên kiện, huyết giác, lá đơn gối hạc, rễ si, vòi voi, ngũ gia bì gia giảm.

Các vị trên sao tẩm đúng công thức cân thành một thang, cho vào siêu, đổ 3 bát nước, sắc kỹ lấy một bát, chỉ sắc 1 lần lấy 1 bát (200ml) chia làm 2 lần uống. Cách dùng mỗi ngày uống một thang chia làm 2 bận sáng sớm và lúc sắp đi ngủ buổi tối. Uống 10-15 thang. Nếu chân đau nhiều gia thêm mộc qua, ngưu tất. Chủ trì các chứng tỳ hư, thận hư, kiêm thấp sinh ra đau xương, đau mình, nhức vai, nhức lưng, nhức chân tay, hoặc tê cấu không đau, thấp khớp nhẹ cũng chưa được. Cấm kỵ có thai không nên dùng. Kiêng ăn cua, lươn, ốc, ếch, cà cuống, mẻ.

Bài 2: Cành dâu, nam ngưu tất, tùng tiết, địa long, quế chi, tằm xa, tục đoạn, ngải cứu, câu đằng, nghệ vàng, lá lốt, vòi voi, rễ dầu lai gia giảm.

Các vị cho vào nồi đổ đầy nước, đun kỹ, lọc lấy nước đặc chắt ra, lại đun lần nữa xong cô lại thành cao pha thêm vào 30% rượu để dùng. Cách dùng: Ngày uống 3 lần vào trước 2 bữa cơm và tối đi ngủ. Mỗi lần uống 1 thìa. Người bệnh thuộc loại hàn da nhợt, lưỡi trắng trơn thì hòa với rượu mà uống. Người bệnh thuộc loại nhiệt da mặt đỏ, lưỡi đỏ thì hòa với nước đun sôi để nguội mà uống. Trẻ em từ 10-15 tuổi, mỗi lần uống nửa thìa với nước đun sôi để nguội.

Chủ trì chữa các chứng phong, tê, bại, xuôi, da thịt cấu không biết đau, hoặc sưng các khớp xương, hoặc đau buốt trong xương thịt, hoặc chân tay run rẩy, hay bán thân bất toại…

Bài 3: Thiên niên kiện, huyết giác, tỳ giải, cỏ xước, quế chi tiêm, xa tiền tử, bạc hà, uy linh tiên, tang ký sinh hoặc tang chi, thổ phục linh, tục đoạn, mộc thông, chi tử gia giảm. Cho 4 bát nước sắc cạn lấy 1 bát. Ngày sắc 2 lần, uống vào buổi sáng và tối sau bữa cơm. Uống lúc thuốc còn nóng. Bài này có thể tán thành bột, khi dùng lấy 12g với lưng bát nước đun sôi rồi uống nóng. Uống 10-15 thang.

Chủ trị chữa các bệnh phong,tê, thấp, đau lưng, đau các khớp xương, chân tay, thân thể đều đau thuộc loại thực chứng. Có người dùng thì khỏi đau luôn, có người thì đau tăng trong vài giờ và giảm bệnh dần.

Cấm kỵ: Có thai không dùng. Kiêng ăn ếch, nhát, trẫu tràng, thịt trâu, thị bò, tôm, cua cà chua và rau quả sống.

(0)

Y học cổ truyền gọi sỏi tiết niệu là chứng sa lâm, thạch lâm hoặc cát lâm. Người bệnh có biểu hiện chủ yếu là đau bụng, đau lưng, tiểu tiện ra máu, tiểu tiện khó… Bệnh có nhiều thể: can uất khí trệ, thấp nhiệt, thận hư…

Đối với thể thấp nhiệt, sỏi lâu ngày tích lại, thấp nhiệt trở trệ làm hao tổn chính khí dẫn đến hư nhược thể hiện: đau vùng thắt lưng, đau lan xuống bàng quang và cơ quan sinh dục kèm theo đái dắt, đái buốt, đái khó, ăn không ngon, thân thể nặng nề, gầy yếu, miệng khát nhưng không uống được nhiều, rêu lưỡi bẩn, mạch hoãn trầm. Phép chữa là lợi thấp hóa ứ, tán kết thông trở, bổ thận ích khí. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: Niệu lộ kết thạch thang: hải kim sa 15g, kim tiền thảo 15g, xa tiền tử 10g, mộc thông 10g, bạch linh 10g, thanh bì 10g, trần bì 10g, hoạt thạch 15g, hổ phách giã nát nghiền bột 3g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 15-20 ngày. Công dụng: lợi thấp hóa ứ, tán kết thông trở, bổ thận ích khí. Gia giảm:

Nếu nhiệt nặng thêm đại hoàng 10g, chi tử 10g, chích thảo 10g.

Thấp nặng, thêm trư linh 10g, ý dĩ 15g.

Đau kịch liệt, thêm huyền hồ 10g, tiểu hồi 5g, xích thược 15g, nga truật 15g.

Khí hư, thêm đảng sâm 20g, hoàng kỳ 15g, hoài sơn 15g.

Đái ra máu, thêm bồ hoàng 10g, đại tiểu kế 10g.

Thận hư, thêm tang ký sinh 15g, tục đoạn 15g, thỏ ty tử 10g, nhục quế 4g, phụ tử chế 3g.

Bài 2: hoạt thạch 20g, cam thảo 3g, hỏa tiêu 20g. Các vị nghiền nhỏ, ngày uống 2 lần, mỗi lần 2g, chiêu bằng thang kê nội kim 15g.

Bài 3: cỏ râu mèo (miêu tu thảo) 60g. Sắc uống.

Bài 4: sừng bò sấy khô nhỏ lửa, tán bột mịn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 9g, chiêu bằng rượu loãng và giấm gạo.

Bài 5: Niệu lộ bài thạch thang: kim tiền thảo 30g, thạch vĩ 30g, xa tiền tử 25g, mộc thông 10g, cù mạch 15g, biển súc 25g, chi tử 25g, đại hoàng 10g, hoạt thạch 15g, chích thảo 10g, ngưu tất 15g, chỉ xác 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 30 ngày. Công dụng: tiêu thạch thông lâm, hành khí hóa ứ, thanh nhiệt lợi thấp nhiệt.

Bài 6: Lấy 1 quả dứa, khoét 1 lỗ trong lõi, cho phèn chua 25g, đậy lại bằng miếng khoét, dùng tăm tre cố định. Nướng nhỏ lửa khoảng 30 phút, lấy ra ép lấy nước, chia uống nhiều lần trong ngày. Tác dụng làm tiêu sỏi thận phosphat.

Bài thuốc dùng ngoài: lấy 3 -5 củ hành sống, một nhúm muối ăn. Giã nát trộn đều, vê thành viên như quả táo, đặt vào các huyệt: thần khuyết, tiểu trường du, bàng quang du; băng lại, mỗi ngày thay thuốc 1 lần.

(0)

Tỏi lên men trong 60 ngày sẽ chuyền thành màu đen (nên được gọi là tỏi đen). Tỏi đen có nhiều công dụng rất tốt cho sức khỏe: ngăn ngừa xơ cứng động mạnh, tốt cho tim mạch, giảm cholesterol…

Ăn từ một đến 3 củ tỏi đen mỗi ngày hoặc ngâm rượu uống tốt cho sức khỏe

Theo bác sĩ Huỳnh Tấn Vũ (Khoa Y học cổ truyền, ĐH Y Dược T.p HCM) cho hay, từ xưa tỏi đen đã được dùng nhiều như một phương thuốc tự nhiên chữa các bệnh thường gặp như cúm, nhiễm trùng…Tỏi đen được các chuyên gia đánh giá là một trong những loại thảo dược quý.

Theo kết quả nghiên cứu, trong tỏi đen chứa tới 18 loại acid amin, SOD enzin-polyphenol có tác dụng phòng chống ung thư, S-allyl cysteine có công dụng giảm mỡ trong máu. Những chất này được chứng minh có tác dụng bảo vệ tế bào gan, giảm cholesterol giúp ngăn ngừa xơ cứng động mạch, tốt cho tim mạch. Tỏi đen cũng được biết đến với khả năng gỗ trợ điều trị ung thư do khả năng chống oxy hóa và tăng cường miễn dịch.

Một vài công dụng của tỏi đen
Giảm cholesterol: S-allyl cysteine trong tỏi đen có khả năng làm giảm cholesterol.
Chống vi khuẩn, nhiễm trùng: S-allyl cysteine hỗ trợ hấp thụ allicin, tăng khả năng tự bảo vệ của cơ thể chống lại vi khuẩn, virus và tác nhân nhiễm trùng.

Chống gốc tự do: Tỏi đen có khả năng chống oxy hóa tốt do đó tỏi đen rất tốt cho các bệnh mãn tính (gây ra bởi các tế bào bị hư tổn do các gốc tự do) như tim mạch, bệnh Alzheimer, viêm khớp…

Hỗ trợ điều trị ung thư: Các hợp chất sulfur hữu cơ, dẫn chất của tetrahydro carboline được hình thành từ quá trình lên men có hoạt tính mạnh dọn gốc tự do và ức chế quá trình peroxy hóa lipid giúp kháng lại các tế bào khối u.

Một vài cách sử dụng tỏi đen
Ăn trực tiếp: Tỏi đen nguyên củ, bóc vỏ ăn trực tiếp từ 1-3 củ /ngày. Khi ăn nên nhai kỹ để việc hấp thụ tỏi đen dễ dàng hơn

Dùng ngâm rượu: Ngâm tỏi đen với rượu trắng, tốt nhất là rượu nếp nguyên chất không có cồn. Cách dùng mỗi lần khoảng 50ml, uống ít nhất 1 lần trong ngày.

(0)

Cà gai leo còn gọi là cà quýnh, cà quánh, trap khar ( campuchia), Blou xít ( Lào)
Tên khoa học Solanum procumbens Lour. ( Solanum hainanense Hance) thuộc họ cà Solanceae

Mô tả cây:
Cà gai leo thuộc loại cây nhỡ leo, thân dài 0,6m-1m hay hơn, rất nhiều gai, cành xòa rộng, trên phủ lông hình sao. Lá hình trứng hay thuôn, phía gốc lá hình rìu hay hơi tròn, mép nguyên hay hơi lượn và khía thùy hai mặt, nhất là mặt dưới phủ lông trắng nhạt, phiến dài 3-4cm, rộng từ 12-20mm, có gai, cuống dài 4-5mm. Hoa tính nhạt, nhị vàng, họp thành sim gồm 2-5 hoa. Quả hình cầu, khi chín có màu vàng bóng, nhẵn, đường kính từ 5-7mm. Hạt màu vàng, hình thận, có mạng, dài 4mm, rộng 2mm.

Phân bổ, thu hái và chế biến:
Cà gai leo mọc hoang ở khắp nơi tại các tỉnh miền Bắc, tới Huế. Ở Lào và Campuchia cũng có.
Thường người ta đào rễ quanh năm, rửa sạch thái mỏng, phơi hay sấy khô làm thuốc. Không phải chế biến gì khác.

Thành phần hóa học:
Toàn cây và nhiều nhất ở rễ có ancaloit. Trong rễ còn có tinh bột, saponozit, flavonozit solasodim, solasodinon…

Công dụng và liều dùng:
Rễ cà gai leo được nhân dân dùng làm thuốc chữa phong thấp, đau nhức răng, sâu răng, chảy máu chân răng.
Có nơi nhân dân coi như có tác dụng chữa say rượu. Người ta cho rằng trong khi uống rượu thỉnh thoảng sát răng bằng rễ cà gai leo thì tránh được say rượu. Nếu bị say uống nước sắc của rễ. Ngoài ra còn dùng để chữa bệnh lậu. Mỗi ngày uống từ 16-20g rễ khô dưới dạng sắc.
Có nơi dùng chữa rắn cắn: Nhai rễ nuốt nước, bã đắp lên vết bị rắn cắn.
Thông tin trên được trích từ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của giáo sư, tiến sỹ Đỗ Tất Lợi.

Ngay từ những năm 1980, cây cà gai leo đã được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm do những tác dụng tuyệt vời mà nó mang lại. Cố GS Phạm Kim Mãn là người đầu tiên nghiên cứu một cách bài bản Cà gai leo với đề tài “Nghiên cứu Cà gai leo làm thuốc hạ men gan”. Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy tác dụng hạ men gan rất nhanh chóng của Cà gai leo.
Cho đến nay đã có 2 đề tài cấp Nhà nước, 4 luận văn tiến sĩ và nhiều công trình nghiên cứu khác về dược liệu này. Cà gai leo cũng là loại cây duy nhất được thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân viêm gan B mạn tính thể hoạt động và cho kết quả rất đáng khích lệ. Những nghiên cứu tại Viện Dược liệu Trung ương, Viện Trung ương quân đội 108, Viện Quân y 103 đã cho thấy:
Cà gai leo là dược liệu duy nhất được chứng minh có tác dụng ngăn chặn xơ gan rõ rệt thông qua việc ức chế sự tạo thành các sợi collagen qua hai nghiên cứu “Nghiên cứu tác dụng ức chế quá trình xơ của Cà gai leo trên mô hình gây xơ gan thực nghiệm” và “Nghiên cứu tác dụng trên collagenase của Cà gai leo”, đề tài thuộc công trình nghiên cứu khoa học 1987-2000 của Viện dược liệu Trung ương.

(0)

Là một loại thuốc quý và có nhiều giá trị trong điều trị dứt điểm các bệnh lý liên quan đến dạ dày như : Viêm loét dạ dày mãn tính, viêm hang vị, viêm thương vị, viêm loét tá tràng. Cây Chè Dây được đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc sử dụng từ ngàn năm nay như một vị thuốc nam hiệu quả và ít tác dụng phụ. Hiệu quả của cây Chè Dây qua thực tế đã chứng minh, cũng được các công trình nghiên cứu khoa học thử nghiệm lâm sàng đem lại hiệu quả cao

1. Giới Thiệu về cây chè dây:
– Trong khoa học chè dây được định danh là Ampelopsis cantoniensis, là một thực vật họ nho được tìm vào năm 1853 bởi K.Koch. Phân tích hoá học cho thấy trong trà dây chứa các chất : flavonoid, myricetin, tanin hai loại đường Glucase và Rhamnese. Trong đó flavonoid có tác dụng kháng khuẩn, chống oxy hoá mạnh.
– Tại Việt Nam cây mọc nhiều tại các khu vực miền núi Tây Bắc như Tuyên Quang, Lào Kai, Lai Châu và nhiều tình miền trung như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị…Trà Dây thường được các dân miền núi phía bắc gọi là Thau Rả, Khau Rả hoặc các tên gọi khác như : Chè Hoàng Gia, Song Nho Quảng Đông:
2. Dược tính:
– Theo Đông Y: Chè dây có vị ngọt đắng, tính mát, kháng viêm và giải độc mạnh thường được dùng như một loại chè giải nhiệt, kháng viêm tiêu độc mà không gây bất kì tác dụng phụ nào, thường được các một số dân tộc miền núi Tây Bắc sử dụng như nước uống hàng ngày
– Theo đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của PGS TS Vũ Nam: Chè Dây có hiệu quả đặc biệt mạnh với các bệnh dạ dày đã được các nghiên cứu thực tiễn bởi bệnh viện Bạch Mai, Viện E, Viện Y Học Cổ Truyền dựa trên các cơ chế chính sau :
+ Diệt và làm sạch xoắn khuẩn Helicobarter Pylori (khuẩn HP) Đây là loại vi khuẩn nguyên nhân của trên 90% bệnh lý viêm loét dạ dày mãn tính hiện nay.
+ Giảm đau kháng viêm: Chè Dây có tác dụng giảm đau mạnh do cơ chế trung hoà Acid và làm liền vết loét, thường người bệnh sẽ giảm đau sau chỉ 8-9 ngày sử dụng
+ Mát gan, an thần: Không giống các loại thuốc khác, thường gây ảnh hưởng không tốt đến cơ chế đào thải của Gan, cũng như các rối loạn về giấc ngủ. Với hoạt chất flavonoid có tác dụng mạnh trong việc giải độc gan cũng như an thần. Do vậy việc sử dụng lâu dài sản phẩm và có thể kết hợp với các loại thuốc khác mà không gây tác dụng phụ, giúp bệnh nhân ăn ngủ tốt, yên tâm trong quá trình điều trị
3. Giá thành và Mua ở đâu:
Chè dây tại mọc tự nhiên rất nhiều ở vùng núi phía bắc Việt Nam, hiện tại người dân đi thu hái sau đó về phơi hoặc sấy khô đóng gói bán nên chi phí rất rẻ. Giá của 1 Kg chè dây Sapa khô thành phẩm chỉ 120.000đ. Chè dây Cao bằng có giá rẻ hơn khoảng 80.000đ-100.000đ nhưng khi uống có vị đắng, ít phấn và không thơm bằng chè dây Sapa.

(0)

Khi nói đến tác dụng làm thuốc của cây sen, hầu hết mọi người thường chỉ nghĩ đến tâm sen, hạt sen, bát, ngó sen… mà ít ai nói đến lá. Thực tế, lá sen có rất nhiều công dụng mà có thể bạn không biết.

Lá sen tính mát,vị đắng, lợi về các kinh can, tỳ, vị. Ngoài ra, loại lá này còn giúp hạ nhiệt, làm tan những ứ tụ và cầm máu.Lá sen được dùng trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian với tên thuốc là liên diệp hoặc hà diệp, được thu hái quanh năm, thường dùng lá non (hoặc lá còn cuộn lại chưa mở) và lá bánh tẻ, bỏ cuống.

Dùng tươi hoặc phơi, sấy khô, đôi khi sao thơm. Dược liệu là nguyên lá to, khô, màu lục, không bị sâu, không có vết thủng, có vị đắng, hơi chát, mùi thơm nhẹ, tính mát bình, không độc, vào ba kinh can, tỳ, thận, có tác dụng thanh nhiệt, cầm máu, tán ứ, an thần, lợi thấp. Sau đây là một số bài thuốc có dùng lá sen.

Dưới đây là một số công dụng của lá sen:

– Chống mất nước: Đối với những người bị tiêu chảy vừa khỏi, cơ thể đang bị thiếu nước. Lấy lá sen non (loại lá còn cuộn lại chưa mở càng tốt) rửa sạch, thái nhỏ, ép lấy nước uống làm nhiều lần trong ngày. Hoặc thái nhỏ, trộn với các loại rau ghém, ăn sống hằng ngày.

– Trị máu hôi sau khi sinh: Lá sen sao thơm (hay lá sen khô) 20-30 g, tán nhỏ, uống với nước, hoặc sắc với 200 ml nước còn 50 ml uống một lần trong ngày.

– Chứng mất ngủ: Lá sen loại bánh tẻ 30 g rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô sắc (hoặc hãm nước sôi) để uống, có tác dụng còn lớn hơn tim sen.

– Chữa sốt xuất huyết : Lá sen 40 g, ngó sen hoặc cỏ nhọ nồi 40 g, rau má 30 g, hạt mã đề 20 g, sắc uống ngày một thang. Nếu xuất huyết nhiều, có thể tăng liều của lá và ngó sen lên 50-60 g.

– Chảy máu cam, tiêu chảy ra máu : Lá sen 40 g để sống, rau má 12 g sao vàng, thái nhỏ, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày.

– Ho, nôn ra máu : Lá sen, ngó sen, sinh địa (mỗi vị 30 g), trắc bá, ngải cứu (mỗi vị 20 g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày.

– Chữa đau mắt : Lá sen, hoa hòe (mỗi vị 10 g), cúc hoa vàng 4 g, sắc uống còn chữa cao huyết áp.

– Trị mụn nhọt: Dùng ngoài, núm cuống lá sen nấu nước đặt để rửa, rồi lấy lá sen rửa sạch, giã nát với cơm nếp, đắp làm tan mụn nhọt.

– Ngăn ngừa béo phì : Lá sen tươi 1 lá, gạo tẻ 100g, đem nấu cháo dùng với đường trắng, cũng có thể gia thêm đậu xanh để tăng sức thanh nhiệt giải độc. Nếu không có lá sen tươi, có thể dùng lá sen khô, nhưng trước khi dùng phải ngâm cho mềm. Hoặc mỗi ngày uống trà lá sen.

Ngoài ra, lá sen đem hãm nước sôi, uống thay trà trong những ngày hè oi bức để chống nóng, giải nhiệt, làm dịu mát, đỡ khát.

Tác dụng phụ của lá sen

ThS. BS. Nguyễn Thị Hằng, Phó chủ nhiệm bộ môn Đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam. Bác sĩ Hằng cho biết,trong y học lá sen có vị đắng, hơi chát, mùi thơm nhẹ, tính mát bình, có tác dụng thanh thử, thăng dương, chỉ huyết. Lá sen được sử dụng làm dược liệu phải là lá màu lục, còn nguyên lá, không bị sâu, không có vết thủng. Đông y sử dụng lá sen làm thuốc an thần, chữa mất ngủ, chữa sốt, miệng khô khát.

Trong đông y, lá sen được xác định là tính mát, bình, không động nhưng nếu dùng quá liều hoặc tùy tiện thì nó cũng có thể trở thành chất gây hại cơ thể. Bệnh nhân ngộ độc vì dùng lá sen có thể gặp các triệu chứng như: tê môi, lưỡi và niêm mạc miệng, nôn nao, hoảng hốt, da xanh xao, chân tay lạnh, vã mồ hôi, co giật, mạch nhỏ yếu, khó bắt, tim đập chậm, không đều, rối loạn tim mạch, tụt huyết áp… Ngoài ra, chính tác dụng thanh nhiệt trong lá sen dễ làm cho người thể hàn bị tiêu chảy, nhiệt độ hạ thấp, chân tay lạnh, đi tiểu nhiều.

Do vậy, theo khuyến cáo người tiêu dùng cảnh giác với sản phẩm chức năng được bào chế từ lá sen, chỉ nên dùng khi thực sự cần thiết, tránh tùy tiện và luôn cảnh giác bởi nguy cơ dị ứng có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Trước khi đi khám bệnh hoặc mua thuốc phải thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết những loại thực phẩm chức năng nào bạn đang dùng hoặc có ý định dùng nó để chữa bệnh.

(0)

Để chữa viêm loét dạ dày và hành tá tràng, có thể lấy táo tàu 10 quả, hồng hoa 10 g, sắc lấy 200 ml nước, trộn đều với 60 g mật ong lúc thuốc còn nóng, uống vào sáng sớm khi đói bụng. Mỗi liệu trình kéo dài 7 ngày.


Sau đây là một số bài thuốc khác:
– Xương cá mực 30 g, thịt gà 150 g, gừng 2 nhánh, táo tàu 2 quả, tất cả cho nước vào ninh nhừ, ăn cả nước lẫn cái; có tác dụng chữa đau dạ dày, hành tá tràng do thừa axit.
– Nước ép cải bắp 250 g nấu sôi, uống trước bữa ăn ngày 2 lần, liên tục trong 10 ngày sẽ hết đau và lành dần vết loét ở dạ dày, hành tá tràng.
– Củ cải và ngó sen tươi lượng bằng nhau, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước uống ngày 2 lần, mỗi lần 50 g; có tác dụng chữa xuất huyết dạ dày.
– Mỗi ngày uống 100 mg vitamin E chia 3 lần, liên tục trong 2-3 tuần. Có thể kết hợp với việc uống mật ong 60 g và bột nghệ 30 g mỗi ngày.
– Khoai tây gọt bỏ vỏ, nghiền nát, lọc lấy nước, đun sôi để uống ngày 3 lần, mỗi lần 1 thìa to, liên tục trong 2-3 tuần.
– Lấy 15 hạt đinh hương nhét vào 1 quả lê đã khoét rỗng ở giữa, hầm chín để ăn. Thuốc có tác dụng chữa chứng hay nôn mửa và nấc do viêm loét dạ dày, hành tá tràng.

(0)

Rau càng cua có tên khoa học là Peperomia pellucida Kunth thuộc họ hồ tiêu Piperaceae. Cây thảo sống hàng năm, lá thân trơn bóng mọng, xanh tươi trông đã thấy giòn ngon. Ở nước ta, rau càng cua mọc hoang khắp nơi. Hiện nay, ở Hà Nội cũng như một số địa phương có nhiều người rất thích ăn hàng ngày vì nó thơm giòn, ấm bụng, tiêu cơm, đặc biệt rau càng cua có nhiều công dụng phòng chữa bệnh.


Rau càng cua chứa nhiều nước, P, Ca, K, Mg, Fe, carotenoid, vitamin C. Rau càng cua góp phần tăng khả năng miễn dịch phòng xơ vữa động mạch, bệnh về mắt, tăng cường sức mạnh cơ bắp, mau lành vết thương, giải nhiệt độc trong cơ thể, phòng chống còi xương ở trẻ em và loãng xương ở người lớn thiếu máu thiết sắc, bệnh tim mạch và tăng huyết áp, đái tháo đường vì có nhiều kali, magie. Ăn mỗi ngày 100g rau càng cua đủ đáp ứng nhu cầu vitamin của người lớn (50mg). Rau càng cua dùng ăn sống trộn dầu dấm đường xem là ngon nhất, bổ nhất vì giòn, thơm, như dạng cải soong. Ngoài ra còn dùng để xào, nấu canh suông hoặc với tôm nõn, thịt lợn, cho vào cháo nóng, lẩu, đặc biệt ăn sống với ếch chiên, thịt bò xào tái, lươn om; làm dầu giấm với đậu phụ chiên giòn là món chay hấp dẫn. Theo kinh nghiệm dân gian, rau càng cua dùng dưới dạng thức ăn phòng chữa cảm mạo, ho hen, ăn không tiêu, tăng huyết áp. Để có tác dụng mạnh phải ăn cả hoa, quả (nhiều người không biết thường bỏ đi).

Rau-cang-cua-800x493Rau càng cua ép nước uống chữa phế nhiệt, viêm họng, khô cổ, khản tiếng.
Theo các lương y thuốc nam, rau càng cua tính chua cay hàn có tác dụng bổ âm, dưỡng huyết, thanh nhiệt giải độc, thông ứ, chỉ thống, lợi đại tiểu tiện. Chữa phế nhiệt, miệng khô khát, chứng huyết nhiệt sinh lở ngứa mụn nhọt và chứng đau mỏi cơ khớp do phong nhiệt.
Một số cách dùng rau càng cua làm thuốc
Chữa phế nhiệt, viêm họng, khô cổ khản tiếng: rau càng cua tươi rửa sạch nhai ngậm hoặc xay nước uống ngày 50-100g.
Chữa chứng tiêu khát (đái tháo đường) có kèm chứng miệng khô khát, táo bón: rau càng cua rửa sạch 100g bóp giấm, chanh, thịt ếch chiên bột 100g ăn tuần vài lần.
Chữa thiếu máu: rau càng cua 100g rửa sạch bóp giấm, thịt bò cho gia vị vừa đủ xào chín tới, trộn đều ăn vài lần.
Chữa tiểu gắt, tiểu khó: rau càng cua ăn sống hoặc nấu nước uống ngày 150-200g.
Chữa đau lưng cơ co rút (nhiệt độc nhập kinh thận): rau càng cua sắc uống mỗi ngày 50-100g.
Chữa nhiễm khuẩn đầu ngón tay (chín mé): rau càng cua 100-150g sắc uống trong, bã đắp ngoài.
Chữa ngoài da khô sần, mụn nhọt lở ngứa, vết thương lâu lành: rau càng cua ăn sống hoặc xay nước uống, giã đắp ngoài.
Ăn rau càng cua chữa nóng trong người, làm mát, bớt táo bón, đi tiểu dễ dàng, người khỏe, tim bớt hồi hộp.
Nên nhổ cả cây, cho vào chậu nhiều nước, khoắng nhẹ cho đất cát rơi xuống đáy chậu đến khi hết đất cát thì rửa lại rồi phải vớt ra rổ thưa cho nhanh ráo nước. Nếu để lâu trong nước, rau sẽ bị nát nhũn. Nấu xào cũng nên dùng tái mới thơm ngon và phát huy được công dụng phòng chữa bệnh của tinh dầu (dùng như cải cúc).

(0)

Atisô (tên khoa học: Cynara scolymus) là loại cây là gai lâu năm có nguồn gốc từ miền Nam châu Âu (quanh Địa Trung Hải) đã được người Cổ Hy Lạp và Cổ La Mã trồng để lấy hoa làm rau ăn. Atisô có thể cao lên tới 1,5 đến 2 mét, lá cây dài từ 50–80 cm.

Hiện nay, người ta trồng atisô không những chỉ dùng lá bắc và đế hoa để ăn mà còn dùng làm thuốc. Hoạt chất chính của atisô làcynarine (Acide 1- 4 dicaféin quinic). Ngoài ra còn có inulin, inulinaza, tanin, các muối hữu cơ của các kim loại Kali, Canxi, Magiê,Natri… Atisô có tác dụng hạ cholesterol và urê trong máu, tạo mật, tăng tiết mật, lợi tiểu, thường được làm thuốc thông mật, thông tiểu tiện, chữa các chứng bệnh về gan, thận. Tuy chất cynarine đã tổng hợp được nhưng người ta vẫn dùng chế phẩm từ cao lá atisô tươi. Trên thế giới, biệt dược Chophytol của hãng Rosa (Pháp) là thông dụng hơn cả.

1. Mô tả

Atisô là cây thảo lớn, cao 1 – 1,2m, có thể đến 2m. Thân ngắn, thẳng và cứng, có khía dọc, phủ lông trắng như bông. Lá to, dài, mọc so le; phiến lá xẻ thùy sâu và có răng không đều, mặt trên xanh lục mặt dưới có lông trắng, cuống lá to và ngắn. Cụm hoa hình đầu, to, mọc ở ngọn, màu đỏ tím hoặc tím lơ nhạt, lá bắc ngoài của cụm hoa rộng, dày và nhọn, đế cụm hoa nạc phủ đầy lông tơ, mang toàn hoa hình ống. Quả nhẵn bóng, màu nâu sẫm có mào lông trắng

2. Địa lý phân bổ

Atisô là cây thuốc nguồn gốc Ðịa Trung Hải, được người Pháp di thực vào trồng ở Việt Nam từ hàng trăm năm nay ở các vùng có khí hậu ôn đới như Ðà Lạt (Lâm Ðồng), Sapa(Lào Cai), Tam Ðảo (Vĩnh Phúc). Ðến nay atisô được phát triển trồng ở nhiều nơi, kể cả vùng đồng bằng như Hải Dương cây vẫn phát triển tốt.

3. Bộ phận được dùng

Cụm hoa và lá bắc có phần gốc nạc, thường được dùng làm rau ăn và làm thuốc. Lá hái lúc cây sắp ra hoa hoặc mới ra hoa, dùng làm thuốc.

4. Tác dụng

Hoa và cụm lá bắc atisô dùng làm rau ăn. Nấu canh hoặc hầm với xương lợn hay nấu với gan lợn, ăn rất bổ. Với bệnh nhân đái tháo đường có tác dụng hạ lượng đường trong máu (do có chất Inulin).

Ngoài ra còn có tác dụng nhuận gan, nhuận tràng, lợi tiểu, giải độc. Lá atisô (và các chế phẩm chiết suất toàn phần như cao lỏng, cao đặc, cao khô atisô) có tác dụng lợi tiểu, tăng tiết mật, thông mật, hạ cholesterol máu. Bảo vệ gan chống độc (do sự có mặt của 6 chất trong nhóm polyphenol và 10 chất nhóm acid alcol cùng các flavonoid).

Thanh nhiệt, giải độc gan, lợi gan mật, tốt cho hệ tiêu hoá, giảm cholesterol, giảm lượng đường máu, chống viêm.

Rất tốt với những người uống nhiều rượu bia, nóng trong người và tốt cho người bệnh: Tiểu đường, mỡ máu, viêm gan, huyết áp, tim mạch…

5. Trong y học Dân gian

Cụm hoa được dùng trong chế độ ăn của bệnh nhân tiểu đường vì nó chỉ chứa lượng nhỏ tinh bột, carbonhydrat gồm phần lớn là inulin. Lá atisô vị đắng, có tác dụng lợi tiểu và được dùng đề điều trị bệnh phù và thấp khớp.Ngoài việc dùng đế cụm hoa và lá để ăn, atisô dùng làm thuốc thông tiểu tiện, thông mật, chữa các bệnh suy gan thận, viêm thận cấp và mạn tính, sưng khớp xương.

Thuốc có tác dựng nhuận tràng và lọc máu nhẹ đối với trẻ em. Bộ phận dùng là lá tươi hoặc khô, đem sắc hoặc nấu cao lỏng, với liều 2 – 10g lá khô một ngày, có khi chế thành cao mềm hay cao khô đề bào chế thuốc viên, thuốc tiêm dưới da hay tĩnh mạch. Có thể chế thành dạng cao lỏng đặc biệt dùng dưới hình thức giọt.

Người ta còn dùng thân và rễ atisô thái mỏng, phơi khô, công dụng như lá.

Dưới đây là một số bài thuốc thông dụng trị bệnh tiểu đường

Bài 1: Thân cây atisô 40g, rễ 40g, hoa 20g, tất cả phơi khô, tán nhỏ, mỗi lần dùng 2g pha như pha nước chè.

Bài 2: Hoa atisô 50g cũng phơi khô tán nhỏ, mỗi lần dùng 2g, pha như pha nước trà

Bài 3: Hoa atisô 100g, lá atisô 100g, luộc ăn như ăn các loại rau thông thường.

Bài 4: Giò heo hầm atisô: Giò heo (giò lợn, giò trước tốt hơn giò sau), 2 hoa atisô, gia vị muối tiêu đường, bột ngọt, vừa đủ, rau ngò..Cách làm: Giò heo cạo sạch, đập phần móng, bóc bỏ phần cứng của móng. Chặt khoanh tròn. Ướp gia vị: muối, tiêu, đường, bột ngọt, củ hành tím băm nhỏ. Để 30 phút cho giò heo thấm gia vị. Hoa atisô: 1 hoa tách rời tùng cánh, rủa sạch, để ráo nước, hoa còn lại không tách cánh, chỉ cắt bót phần đầu cánh cứng. Rửa thật kỹ dưới vòi nước cho sạch hết các chất bẩn.Hành lá rửa sạch, để ráo, xắt ngắn. Đặt nồi nước lên bếp, cho 1 củ hành tím vàn nước cho thơm. Nước sôi cho giò heo vào nồi nấu tiếp. Chú ý không đậy nắp nồi để giữ cho nước canh trong. Thỉnh thoảng vớt hết bọt trong nồi ra. Để lửa nhỏ, nước canh sôi lăn tăn vào khoảng 45 phút. Cho hoa atisô vào nồi hầm tiếp khoảng 20 phút nữa. Nêm gia vị, nước mắm vào bột ngọt cho vừa ăn.Nhắc xuống, múc giò heo hầm ra tô lớn. Đặt hoa atisô ở giữa, xung quanh rắc tiêu, hành ngò. Món giò heo hầm atisô kích thích vị giác giúp quá trình tiêu hóa dễ dàng dùng cho người bị tiểu đường. Ngoài ra nó còn có tác dụng tăng tiết sữa ở các bà mẹ sau khi sinh.

Bài 5: Hoa atisô 50g, ý dĩ 50g, lá lách lợn 150g, gia vị vừa đủ. Hoa atisô, ý dĩ, giã nhỏ, lá lách lợn rửa sạch, thá

(0)

Lá dâu hay còn gọi là tang diệp có tên khoa học là Folium Mori. Theo Đông y, lá dâu không mùi, vị nhạt, ngọt đắng, tính mát vào hai kinh can, phế. Trong Đông y, lá dâu có một phạm vi ứng dụng lâm sàng rộng rãi.
Một số thực nghiệm lâm sàng cho thấy ăn lá dâu hằng ngày (canh lá dâu, canh hến lá dâu hoặc xào với trứng) hoặc nước hãm lá dâu có khả năng ổn định huyết áp, nhịp tim, đường huyết, làm giảm đáng kể nguy cơ đột quỵ ở nhóm người tăng huyết áp và biến chứng ở người tiểu đường.

Một số bài thuốc thường dùng từ lá dâu:

Bài 1: Lá dâu non hoặc bánh tẻ nấu canh hoặc nấu chung với hến, nghêu, cá diếc hoặc hãm nước uống hằng ngày có tác dụng ổn định huyết áp, đường huyết và nhịp tim. Bài thuốc này thích dụng cho các bệnh về phổi, phế quản, âm hư nội nhiệt, tăng huyết áp thể can thận âm hư, cải thiện các triệu trứng hội chứng mãn kinh, mồ hôi trộm…

Bài 2: Lá dâu và mè đen đồng lượng trộn đều (9 lần đồ, 9 lần phơi), thục địa 1kg, liên nhục 200g, tất cả tán nhỏ, trộn với mật ong hoàn viên to bằng hạt ngô, ngày uống 5g, chia làm 2 lần sáng – tối. Giúp da tươi nhuận, mịn màng. Uống lâu dài giúp gân cốt rắn chắc, khí huyết dồi dào, tăng thính lực. Bài thuốc này thích hợp cho những người sạm da, nám má, cơ thể suy nhược, gân cốt suy yếu, thiếu máu, can thận âm hư, ù tai, tăng tuổi thọ…

Bài 3: lá dâu 100g, lá đậu ván 100g, lá sen tươi 100g. Tất cả rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt, thêm chút muối ăn, khuấy đều rồi uống. Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt giải thử, tán phong nhiệt, thích hợp cho những người say nắng, âm hư nội nhiệt, bốc hỏa…

Bài 4: búp dâu non 1 nắm, giã nhỏ đắp vào chỗ sưng, bên ngoài lấy giấy thấm nước đắp, khi khô lại thay, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, kháng viêm, giảm đau, thác sang sinh cơ. Tác dụng trong viêm cơ, viêm tuyến vú, mụn nhọt, trị vết thương lâu ngày, mụn nhọt không liền miệng… Để nâng cao hiệu quả điều trị có thể dùng lá trầu không nấu với nước muối loãng để rửa vết thương, lá dâu vàng, sấy khô, tán bột mịn, rắc lên miệng nhọt, miệng vết thương.

Bài 5: Lá dâu già sao vàng hạ thổ dùng 12-20g, sắc với 100ml còn 50ml, uống ngày 2 lần. Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giáng hỏa, lương huyết, trị thổ huyết, nục huyết (chảy máu cam)…

Bài 6: Lấy 10 lá dâu bánh tẻ to, nấu nước uống. Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt an thần, thích dụng cho trẻ nhỏ bị sốt cao, co giật hoặc trẻ ngủ không ngon giấc, đại tiện táo, nước tiểu vàng sẫm…

Bài 7: Lá dâu 16 – 18g sắc, đợi nước còn nóng ấm rửa búi trĩ, trực tràng… và đẩy lên, lấy băng băng lại, nằm nghỉ. Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, làm săn chắc cơ, thích dụng cho các chứng trĩ, sa trực tràng, sa dạ con…

(0)