Rau đắng được sử dụng phổ biến trong bữa ăn gia đình. Không những thế, rau đắng còn là vị thuốc giúp phòng và trị một số bệnh thường gặp, đồng thời nó còn là loại thực phẩm giúp giảm béo hiệu quả.


Ở nước ta, rau đắng có 2 loại là rau đắng đất và rau đắng biển. Hai loài rau này tuy có tính vị giống nhau nhưng về mặt công dụng cho sức khỏe thì lại có những ưu điểm riêng.
Rau đắng đất:
Rau đắng đất có tên khoa học là Polygonum aviculare L. Là loài cây thân thảo mọc bò trên mặt đất, thân và cành mọc tỏa tròn gần như sát mặt đất, đôi khi mọc cao tới 10 – 30cm, màu đỏ tím. Chúng sống quanh năm, có thân nhỏ nhiều đốt, lá nhỏ mọc so le, có bẹ chìa, phiến lá dài 1,5 – 2cm, rộng 0,4cm. Hoa nhỏ màu hồng tím, mọc tụ lại khoảng 1 – 5 hoa ở kẽ lá.Quả ở cạnh, chứa một hạt đầu đen. Mùa hoa khoảng tháng 5 – 6. Người ta thường thu hái toàn cây, sử dụng thân và lá còn tươi hoặc đem phơi khô sử dụng dần.
Theo Đông y, rau đắng đất hay còn gọi là biển súc, cây càng tôm, cây xương cá. Có vị đắng, tính bình, không độc, có tác dụng lợi tiêu hóa, khai vị, lợi tiểu, trừ thấp nhiệt, sơ can. Những trường hợp có thể sử dụng để trị bệnh như: tiểu gắt buốt, sỏi thận, ăn uống kém tiêu, nóng trong người, hạ sốt, mát gan.
Rau đắng đất có chứa hàm lượng vitamin C khá cao, khi sử dụng giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, làm bền vững thành mạch. Ngoài ra còn có một số chất có lợi cho sức khỏe như: tanin, saponin, flavonoid, alkaloid và sesquiterpene. Các thành phần này kháng khuẩn rất tốt, có thể chống lại một số vi khuẩn gram âm và gram dương. Những người đang bị ho, sốt, cảm lạnh, mụn nhọt, nhiễm trùng đường tiết niệu hay tiêu hóa dùng rau đắng đất cũng giúp tăng cường khả năng chống lại bệnh tật.
Đồng thời, chúng có tác dụng chống lại quá trình oxy hóa, khử các gốc tự do trong cơ thể, ngăn chặn sự hình thành tế bào ung thư. Một công trình nghiên cứu từ Trung Quốc cho thấy rau đắng đất có vai trò quét dọn các gốc tự do trong cơ thể, được sử dụng có lợi cho các đối tượng mắc bệnh Parkinson, Alzheimer, ung thư và các vấn đề về tim mạch.
Các nhà nghiên cứu ở Iran cũng đã tìm ra những bằng chứng thực nghiệm trên bệnh nhân bị ung thư vú, khi cho tương tác với các thành phần có trong rau đắng đất, người ta đã phát hiện một tỉ lệ khá cao khả năng ức chế mạnh mẽ sự phát triển của tế bào ung thư. Qua đó, mở ra những hy vọng mang lại sức khỏe cũng như làm tăng khả năng phòng và điều trị bệnh cho các đối tượng mắc căn bệnh nan y này.
Rau đắng biển:

Rau đắng biển tên gọi khoa học là Bacopa monnieri L. Thường phát triển ở những khu vực đầm lầy, bãi cỏ hoang có hơi ẩm hay nằm pha lẫn với các loại cỏ thấp ở ngoài bờ ruộng nên người ta còn gọi là rau đắng đồng. Đây là loài cây thân thảo sống dai, mọc bò, thân nhẵn mang rễ, dài 10 – 40cm, mang những cành mềm mọc đứng. Lá mọc đối không cuống, hình thuôn, tù, dài 8 – 12mm, rộng 3 – 5mm. Hoa mọc riêng lẻ màu trắng. Quả nang hình trứng, nhẵn, hạt nhỏ, có góc cạnh. Mùa hoa khoảng tháng 4 – 6.
Theo y học cổ truyền Việt Nam, rau đắng biển hay còn gọi là cây ruột gà, cây ba kích, rau sam trắng hay rau sam đắng. Có tính mát, vị đắng, có khả năng thanh nhiệt tiêu độc, lợi tiểu, tiêu thũng. Người dân thường dùng để sắc uống chữa ho, làm thuốc trị các chứng tiểu gắt buốt, đi cầu khó. Dùng dưới dạng thuốc phơi khô 6 – 12g sắc uống mỗi lần.

Rau đắng biển không thua kém gì so với rau đắng đất, thành phần có trong rau đắng biển cũng sở hữu khá nhiều các chất có lợi cho sức khỏe như: các loại alkaloid và saponin. Các yếu tố này tác động rất tốt trên hệ thống tuần hoàn não, tăng cường dẫn truyền xung động thần kinh, chống lại hiện tượng oxy hóa của tế bào não. Trong nền y học cổ truyền của Ấn Độ cũng đã từng đề cập đến loại thực vật này vì chúng có khả năng giúp người dùng tăng trí nhớ, giảm sự mệt mỏi tinh thần, có tác dụng làm người trở nên tỉnh táo hơn, đồng thời ở người mắc bệnh động kinh nó cũng có hiệu quả ngăn ngừa sự tái diễn của cơn động kinh.
Từ những tài liệu cổ đó, các nhà khoa học Ấn Độ đã thực hiện nhiều nghiên cứu cũng như các thử nghiệm lâm sàng và kết quả đã làm rõ được những tác dụng mà kinh nghiệm dân gian đã để lại. Những tác động của rau đắng biển đối với hệ thần kinh là vô cùng có lợi. Không dừng lại ở đó, những nhà tâm lý học ở Úc cũng đã phát hiện được khả năng lưu giữ thông tin ở não gia tăng một cách rõ rệt và cải thiện khả năng tập trung hiệu quả qua tác dụng của các chất saponin có trong rau đắng biển. Tương tự, các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Thái Lan qua quá trình tìm hiểu đã công bố những tác dụng có lợi này dành cho người trầm cảm, người bị suy nhược thần kinh, bệnh nhân sau tai biến mạch máu não và an toàn khi sử dụng cho người cao tuổi.
Một trao đổi gần đây của những nhà nghiên cứu dược liệu tại Ấn Độ về khả năng ức chế quá trình gây viêm tại các khớp cũng đã đi đến những kết quả khá khả quan. Khi sử dụng trên những người có thoái hóa khớp hoặc mắc các chứng bệnh về đau nhức khớp có biểu hiện viêm, đặc biệt là những đối tượng viêm khớp dạng thấp, cũng giúp làm giảm và ngăn chặn các quá trình gây viêm này, hạn chế được các cơn đau trên khớp, giúp bệnh nhân cải thiện các cử động khớp và thoải mái hơn trong sinh hoạt. Nhưng thực tế chúng vẫn không thể thay thế được việc sử dụng thuốc ở những bệnh nhân này, người bệnh vẫn cần sự tư vấn và chăm sóc kỹ hơn của bác sĩ.

Rau đắng và ẩm thực:
Nhìn chung cả 2 loài rau trên đều có những tác dụng có lợi cho sức khỏe, mỗi loại đều có những ưu điểm khác nhau nhưng cả 2 đều có chung một đặc điểm là có vị rất đắng, nhưng sau khi dùng một thời gian, bạn đã phần nào quen với vị đắng đó thì chúng sẽ cho ta cảm giác ngọt nhẹ và thanh rất ngon miệng.
Cũng giống như những loài rau khác, rau đắng chứa nhiều chất xơ và các loại dinh dưỡng khác nên rất tốt cho chế độ ăn giảm béo, ngăn ngừa rối loạn mỡ máu, phù hợp với các đối tượng đang mắc bệnh mạn tính như tăng huyết áp, đái tháo đường.
Rau đắng trong bữa ăn thường sử dụng cả phần lá và thân, ăn rau tươi chung với các món ăn khác như cháo nóng rất tốt cho sức khỏe, đặc biệt là ăn rau đắng với cháo cá lóc hay cá kèo rất được người dân Nam bộ ưa chuộng.
Nếu ngại bởi vị đắng của rau thì bạn có thể sử dụng dưới hình thức luộc chín ăn chung với cá kho hoặc thịt kho, tương, chao. Hay khi nấu thành canh, nấu lẩu thì vị của rau cũng giảm bớt phần nào tính đắng.
Hoặc ưa chuộng hơn nữa là món xào với tôm, thịt cùng dầu, mỡ và nước cốt dừa cũng cho ta một bữa ăn hấp dẫn.
Dù có khá nhiều công dụng hữu ích nhưng việc sử dụng rau đắng cũng cần có một số lưu ý sau:
– Những phụ nữ đang mang thai nên cẩn trọng khi sử dụng vì đã có một số những ghi nhận thử nghiệm trên chuột, các chất có trong rau đắng có tác dụng gây co bóp tử cung, tăng thời gian đông máu. Làm tăng nguy cơ sảy thai, xuất huyết.
– Ăn nhiều rau đắng trong một bữa ăn có thể tốt cho người bị táo bón nhưng đối với người bình thường hoặc người đang có hệ tiêu hóa không được khỏe sẽ gây ra tình trạng tiêu lỏng.
– Một số chị em dùng các loại thực phẩm có vị đắng như rau đắng, khổ qua sắc nước uống hoặc sử dụng trong bữa ăn hàng ngày như một biện pháp ăn kiêng để giảm béo. Việc làm này đúng nhưng vẫn chưa đủ, có khi dẫn đến những tác dụng ngược lại làm cho người có cảm giác buồn nôn, đầy tức bụng, rối loạn tiêu hóa. Do đó, người dùng nên điều chỉnh chế độ ăn hợp lý với các món ăn khác để cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho cơ thể, đồng thời phải bổ sung thời gian tập luyện thường xuyên mới đạt hiệu quả giảm cân như mong muốn.

(0)

Trong y học cổ truyền, rụng tóc thuộc phạm vi các chứng Lạc phát, Du phong, Ban thốc… và được trị liệu bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có phương thức dùng thuốc bôi ngoài. Bài viết này xin được giới thiệu một số ví dụ điển hình để bạn đọc có thể tham khảo và vận dụng khi cần thiết.


Bài 1: Dầu vừng 120g, đương quy 5g, tử thảo 3g, sáp ong 15g. Trước tiên, đem đương quy và tử thảo sao với dầu vừng cho đến khi khô cháy, sau đó vớt bỏ bã thuốc, bỏ sáp ong vào đun tiếp cho tan rồi dùng vải thô lọc bỏ tạp chất, để nguội cho thành dạng cao. Mỗi ngày dùng cao thuốc xoa lên vùng tóc rụng 2 lần.
Bài 2: Trắc bá diệp tươi 30g, 100ml cồn 750. Đem lá trắc bá ngâm trong cồn 7 ngày thì dùng được, lấy bông gòn tẩm dịch thuốc bôi vào nơi tóc rụng mỗi ngày 3 lần. Thông thường, sau 30 ngày tóc mới sẽ nhú lên, dài dần và chuyển màu đen; sau khoảng 3 tháng thì trở lại bình thường.
Bài 3: Hồng hoa 60g, can khương (gừng khô) 90g, đương quy 100g, xích thược 100g, sinh địa 100g, trắc bá diệp 100g. Tất cả đem ngâm với 3000ml cồn 750, sau 10 ngày thì dùng được, lấy dịch thuốc bôi vào nơi tóc rụng mỗi ngày 3 – 4 lần. Một nghiên cứu của các nhà y học cổ truyền Trung Quốc dùng trên 33 bệnh nhân, đạt hiệu quả 87,9%.
Bài 4: Phá cố chỉ 20g, hạn liên thảo (cỏ nhọ nồi) 10g, xuyên tiêu 10g, can khương 10g, ban miêu 2 con, hồng hoa 5g. Tất cả đem ngâm với 200ml cồn 700 trong 1 tuần thì dùng được, tẩm dịch thuốc vào bônTrong y học cổ truyền, rụng tóc thuộc phạm vi các chứng Lạc phát, Du phong, Ban thốc… và được trị liệu bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có phương thức dùng thuốc bôi ngoài.g gòn rồi bôi vào nơi tóc bị rụng, mỗi ngày 3 – 5 lần, 30 ngày là 1 liệu trình. Chú ý: vì ban miêu rất độc nên tuyệt đối không để dịch thuốc dây vào mắt, miệng, mũi. Một nghiên cứu đã khảo sát trên 123 bệnh nhân, đạt hiệu quả 95,9%.
Bài 5: Cỏ nhọ nồi tươi 100g, lá trắc bá diệp tươi 100g, gừng tươi 100g. 3 thứ rửa sạch, giã nát, ép lấy nước rồi hoà thêm một chút mật ong, bôi vào nơi tóc rụng, mỗi ngày 3 lần, liên tục trong 10 ngày. Bài này chuyên dùng cho bệnh tóc rụng thành từng mảng.
Bài 6: Hành củ tươi 30g, ngô công 3 con, 2 thứ đem giã nhuyễn rồi bôi vào nơi tóc bị rụng, mỗi ngày 2 – 3 lần, dùng liên tục cho đến khi khỏi bệnh. Bài này chuyên trị bệnh tóc rụng thành từng mảng.
Bài 7: Gừng tươi 100g, trắc bá diệp 100g, ớt chỉ thiên 50g. 3 thứ thái nhỏ rồi ngâm trong 800ml cồn 700, sau 15 ngày thì dùng được, lấy bông gòn tẩm dịch thuốc bôi vào vùng tóc rụng, mỗi ngày 3 lần, 50 ngày là 1 liệu trình.
Bài 8: Sinh địa 30g, hà thủ ô 30g, cành cây vừng đen 50g, vỏ cây liễu 50g. Tất cả đem sắc rồi xông gội đầu hằng ngày. Sau mỗi lần xông gội, dùng khăn lau nhẹ cho tóc bớt ướt, lưu dịch thuốc chừng 30 phút rồi gội lại bằng nước sạch, 5 ngày là 1 liệu trình. Một nghiên cứu đã khảo sát trên 110 bệnh nhân, sau 3 – 10 liệu trình đạt hiệu quả 97,3%.
Bài 9: Gừng tươi lượng vừa đủ, rửa sạch, thái phiến rồi xát vào nơi tóc rụng, mỗi ngày 3 – 5 lần, dùng liên tục trong 5 tuần.
Bài 10: Tỏi 2 củ, mật ong 30g. Tỏi giã thật nhuyễn rồi trộn với mật ong bôi lên vùng tóc bị rụng, mỗi ngày 2 lần.
Bài 11: Xuyên tiêu 10g, bạch chỉ 10g, dã cúc hoa 10g. 3 vị đem ngâm với 250ml cồn 750 trong 3 ngày thì dùng được, mỗi ngày bôi vào nơi tóc rụng 2 lần.
Bài 12: Xuyên luyện tử 50g sấy khô tán bột, mỗi lần lấy chừng 5g hoà với dầu vừng bôi lên vùng tóc bị rụng, mỗi ngày vài lần. Bài này chuyên trị bệnh rụng tóc từng mảng.

(0)

So với thuốc tân dược thì Đông y thường ít ảnh hưởng tới sức khỏe của người mẹ và thai nhi nên phần nhiều được chọn lựa để bồi bổ cho người mẹ mang thai.


Do đó cần nắm một số vị thuốc thuộc loại này để chủ động không sử dụng vì có thể gây ảnh hưởng xấu đến sự an toàn cho cả mẹ và thai nhi.
So với thuốc tân dược thì Đông y thường ít ảnh hưởng tới sức khỏe của người mẹ và thai nhi nên phần nhiều được chọn lựa để bồi bổ cho người mẹ mang thai. Dĩ nhiên không phải vị thuốc Đông y nào cũng vô hại cho thai kỳ. Do đó cần nắm một số vị thuốc thuộc loại này để chủ động không sử dụng vì có thể gây ảnh hưởng xấu đến sự an toàn cho cả mẹ và thai nhi.
Việc sử dụng thuốc Đông y dù là những vị thuốc tốt cho thai nhưng nếu không được kiểm soát về nguồn gốc xuất xứ, không đáng tin cậy về cách bào chế thì thuốc đó cũng có thể gây hại đến sức khỏe của thai nhi và người mẹ mang thai.

Thuốc Đông y còn hợp với từng người, vì vậy có người uống một vài thang đã thấy có công hiệu, song nhiều người uống nhiều vẫn chưa thấy chuyển biến gì. Do vậy, trong thời kỳ mang thai dù uống thuốc tân dược hay thuốc Đông y cũng phải hết sức cẩn thận để không gây ảnh hưởng tới thai nhi. Vừa uống thuốc, vừa “nghe ngóng” và theo dõi cơ thể mình xem có điều gì khác lạ để báo kịp thời cho thầy thuốc biết, đồng thời phải ngừng ngay không được uống tiếp.

Người đang mang thai nếu muốn bồi bổ bằng thuốc Đông y cũng cần đến gặp thầy thuốc để bắt mạch kê đơn, không nhờ người bốc hộ. Vì mỗi người mang thai có thể trạng và sức khỏe khác nhau.

Ngoài ra, cần chú ý mua thuốc ở nơi có uy tín, rõ nguồn gốc. Sắc thuốc uống theo thang, đúng liều lượng không tùy tiện lạm dụng khi dùng thuốc. Trước khi sắc, rửa sạch thuốc nhiều lần cho hết chất bẩn, chất bảo quản còn tồn lưu trong thuốc.

Cách tốt nhất và an toàn hơn là người mẹ nên bồi bổ sức khỏe bằng cách ăn uống, ăn đủ chất, sinh hoạt và nghỉ ngơi hợp lý, tập thể dục đều đặn như vậy sẽ an toàn và hiệu quả nhất để bảo vệ sức khỏe cho mẹ và thai nhi.

Tóm lại, nếu thấy cần sử dụng đến thuốc Đông y dù là thuốc bổ cũng nên xin ý kiến của bác sĩ, không tùy tiện sử dụng bất kỳ một loại thuốc nào.

Những vị cấm tuyệt đối:

Xà thanh, phụ tử, thiên hung, ô đầu, dã cát, thủy ngân, ba đậu, nguyên hoa, đại kích, nao sa, địa đảm, ban miêu… Ví dụ trong sách Biệt Lục có nói “phụ tử” là vị thuốc hàng đầu gây trụy thai…
Những vị thuốc cấm ở mức tương đối:
Thủy chí, manh trùng, ngô công, hùng hoàng, khiên ngưu tử, can tất, giải trảo giáp, xạ hương…
Những vị thuốc hạn chế dùng:
Một số vị thuốc có tác dụng làm lưu thông huyết, có thể dẫn đến trụy thai như mao căn, mộc thông, cù mạch, thông thảo, ý dĩ nhân, đại giả thạch, mang tiêu, đào nhân, mẫu đơn bì, tam lăng, ngưu tất, can khương, nhục quế, chế bán hạ, tạo giác, nam tinh, hòe hoa, thuyền thoái (xác ve)…
Những vị thuốc bào chế tổng hợp mà thai phụ không nên dùng:
Ngưu hoàng giải độc hoàn, đại hoạt lạc, tiểu hoạt lạc đan đan, lục thần hoàn, tô hợp hương hoàn, ngưu hoàng thanh tâm hoàn, tử tuyết đan, hắc tích đan, khai hung thuận khí hoàn, phục phương đương quy, chú xạ dịch, thập trích thủy, tiêu kim đan, ngọc châu tán. Ngoài ra, hoắc hương chính khí hoàn, phòng phong thông thánh hoàn, xà đảm họ mạt, cũng cần thận trọng khi sử dụng.

(0)

Chỉ nghe cái tên thôi cũng đã rất hấp dẫn, quả thật trong đu đủ chứa đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Đu đủ chín chứa khoảng 70% nước, 13% đường, không có tinh bột, có nhiều carotenoit, axit hữu cơ, vitamin A, B, C, Protit, 0,9% chất béo, xenlulôzơ (0,5%), canxi, photpho, magiê, sắt, thiamin, riboflavin…


Đu đủ có nhiều thành phần dinh dưỡng

1. Thành phần dinh dưỡng

Đặc biệt trong đu đủ lượng beta caroten nhiều hơn trong các rau quả khác. Beta caroten là một tiền chất của vitamin A, vào cơ thể sẽ được chuyển hoá thành vitamin A. Đây là một loại vi chất dinh dưỡng có vai trò là chống oxy hoá mạnh giúp chống lại một số căn bệnh ung thư, chống khô mắt, khô da và có tác dụng nhuận tràng. Trong 100g đu đủ chín chứa 2.100 mcg beta caroten.

Tuy nhiên nhu cầu beta caroten cũng cần vừa phải, nếu ăn quá nhiều, liên tục sẽ dẫn đến thừa và gây vàng da. Hiện tượng vàng da này sẽ mất nếu giảm lượng beta caroten ăn vào.

Ngoài ra trong đu đủ còn chứa nhiều vitamin. Đu đủ có thể cung cấp cho cơ thể các loại vitamin thiết yếu như vitamin A và vitamin C, trong 100g đu đủ có 74-80 mg vitamin C. Ở Ấn Độ người ta đã chiết xuất vitamin A từ quả đu đủ để sản xuất ra thuốc chống lại bệnh quáng gà ở trẻ em. Đu đủ còn có các vitamin B1, B2, các acid gây men và khoáng chất như kali, canxi, magiê, sắt và kẽm. Ăn đu đủ thường xuyên có tác dụng bổ máu, giúp hồi phục gan ở người bị sốt rét. Do có nhiều sinh tố C và caroten nên đu đủ có tác dụng chống oxy hoá, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

2. Dưỡng sinh với đu đủ

Đu đủ chín có quanh năm và mùa nào dùng cũng tốt cho sức khoẻ. Vào mùa hè, ăn đu đủ có tác dụng thanh tâm, nhuận phế, giải nhiệt, giải độc. Vào thu đông, đu đủ giúp nhuận táo, ôn bổ tỳ vị, dưỡng can, nhuận phế, chỉ khái, hoá đàm.

Đu đủ có tác dụng tốt cho những người chóng già, da mai mái, thể trạng không sung mãn, có các bệnh mạn tính. Dùng đu đủ chín 200g, chuối xiêm 300g, 3 thứ trên xay trong nước dừa non, uống hằng ngày. Đây là phép dưỡng sinh chống lão suy của người xưa.

Đu đủ chín coi là một món ăn bồi bổ và giúp sự tiêu hoá các chất thịt. Còn trong nấu ăn khi hầm các loại thịt, xương cứng người ta thường cho quả đu đủ xanh vào làm cho các thức ăn mau nhừ, nhuyễn, tiêu hoá tốt.

3. Làm đẹp với đu đủ

Đu đủ rất giàu enzyme tự nhiên, dễ dàng thấm sâu vào làn da giúp đẹp da, mau lành các tổn thương trên da. Đu đủ cũng có tác dụng tẩy tế bào da chết, hồi phục sự tươi trẻ cho làn da.

– Hỗn hợp massage da mặt từ đu đủ: Trộn đu đủ xay với một thìa dầu aloe vera và massage khắp cơ thể. Nên thực hiện đều đặn mỗi tháng 1 lần để tái tạo làn da.

– Mặt nạ dành cho mọi loại da: Xay nhuyễn 1 quả đu đủ, 1 muỗng cà phê mật ong và chút nước cốt chanh. Đắp lên mặt 20 phút, rồi rửa sạch.

– Với da mụn: dùng đu đủ chín bỏ vỏ và hạt, nghiền mịn làm mặt nạ lột da mặt, giúp chữa khỏi mụn trứng cá.

– Quả đu đủ xanh nghiền nát với nước dùng bôi mặt hoặc tay để chữa chai chân và bệnh eczema.

Chú ý: Đặc tính tẩy tế bào chết ở đu đủ rất mạnh nên tránh dùng đu đủ trên các vùng nhạy cảm như vùng mắt, da non…

4. Chữa bệnh với đu đủ

Trong đu đủ có chứa rất nhiều loại enzim, ví như enzim papain rất tốt cho tiêu hoá, giúp tiêu hoá các thức ăn giàu protein một cách dễ dàng hơn. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh celiac (một loại bệnh mà không thể tiêu hoá protein trong lúa mì, hay gliandin) thì có thể ăn đu đủ xanh để chữa căn bệnh này.

Ở Ấn Độ, Srilanka và Malaysia, người ta dùng lá, hạt và quả đu đủ xanh để phá thai. Các công trình nghiên cứu cho thấy tác dụng phá thai có được là do chất nhựa papain, có nhiều trong quả xanh, lá, hạt đu đủ. Chất này khi vào cơ thể sẽ phá huỷ progesterol là một trợ thai tố. Quả đu đủ đã chín ít nhựa thì không còn tác dụng này nữa.

Ở Mỹ người ta đã chứng minh rằng quả đu đủ có thể chế biến thuốc để chữa bệnh lệch khớp xương hay có thể chế ra thuốc tiêm, có công dụng làm giảm đau do các dây thần kinh gây nên.

5. Một số chú ý

– Không nên ăn hạt đu đủ bởi trong hạt đu đủ có chứa chất độc gọi là carpine. Với một số lượng lớn carpine sẽ làm bạn bị rối loạn mạch đập và làm suy nhược hệ thống thần kinh.
– Không ăn nhiều đu đủ chín hàng ngày trong thời gian dài vì sẽ khiến phần da lòng bàn tay, bàn chân bị vàng. Hiện tượng này hết sau một thời gian ngừng ăn.
– Loại quả này giàu đường nên cũng không dùng nhiều cho người đường huyết cao.
– Đu đủ chín có tính nhuận tràng, nên kiêng với những trường hợp đang đi ngoài hay đang uống các thuốc nhuận tẩy của Đông Tây y.
– Ăn đu đủ nên hạn chế dùng lạnh vì bản thân đu đủ có tính hàn.

(0)

Đối với những người có bệnh về hệ tim-mạch, súp lơ có ích bởi nó giúp đào thải những cholesterin “xấu” và củng cố mạch máu. Những thành phần hữu ích của súp lơ.

Các loại súp lơ

Thành phần của súp lơ

Cây súp lơ có chứa khá nhiều thành phần hóa học phong phú, trong đó có các vitamin, protein, các muối khoáng và các chất carbonhydrate. Trong cây súp lơ trắng còn chứa nhiều axit amin rất có giá trị như lysine, arginine, tryptophan và những chất khác. Nó còn có một lượng nhỏ xen-lu lô do cấu trúc mềm dễ tiêu hóa. Ngoài ra, trên thực tế thì một nửa các chất có trong súp lơ là chất đạm-đó là các hợp chất protein dễ tiêu hóa, do đó mà nó là loại rau dễ hấp thụ nhất đối với cơ thể con người. Chính vì tất cả những đặc tính hữu ích trên của súp lơ nên nó được sử dụng thường xuyên trong bữa ăn đối với những người bị các bệnh về đường tiêu hóa và gặp các vấn đề về gan.

Đặc biệt được chú ý là thành phần vitamin có giá trị của súp lơ. Nó có chứa các vitamin A, C, vitamin nhóm B, niacin, pantothenic, axit tartric và axit folic. Thành phần khoáng chất của súp lơ bao gồm kali, natri, magie, đồng, sắt, lưu huỳnh, clo và phốt pho. Súp lơ cũng giàu axit pectin, malic và citric.
Tác dụng y học của súp lơ

Đối với cơ thể con người thì thành phần khoáng chất-vitamin của súp lơ rất có ích bởi nó có tác dụng từ nhiều mặt: Kích thích các quá trình trao đổi chất và tham gia vào hoạt động tạo máu để củng cố hệ tim-mạch, cũng như các chức năng bảo vệ cơ thể. Vì thế mà súp lơ không chỉ được coi là một món ăn dinh dưỡng quý giá mà còn là một thành phần dinh dưỡng quan trọng đối với trẻ em.

Ưu thế trong súp lơ là đường fructose và glucose, làm cho nó trở thành loại rau có thành phần dinh dưỡng tốt đối với những bệnh nhân tiểu đường. Còn đối với những người có bệnh về hệ tim-mạch thì súp lơ cũng có ích bởi nó giúp đào thải những cholesterin “xấu” và củng cố mạch máu.

Hàm lượng axit tartric có trong súp lơ giúp phòng tránh chứng béo phì. Súp lơ, cũng như bắp cải, súp lơ xanh được coi là thực đơn tốt có đặc tính phòng ngừa các bệnh ung thư. Có thể sử dụng súp lơ để điều trị chứng táo bón, các bệnh về gan và chứng chán ăn. Khi bị viêm lợi có thể súc miệng bằng nước ép súp lơ tươi hòa với nước đun sôi để ấm theo tỷ lệ 1:1.

Hợp chất bột nhão từ lá súp lơ hòa với lòng trắng để điều trị vết bỏng và các vết thương có sẹo. Cách làm là nghiền nát lá, thêm lòng đỏ trứng gà và đặt lên vài lớp gạc, sau đó đắp lên chỗ vết thương và băng lại.

(0)

Cây Nhàu có tên khoa học là Morinda citrofolia Lin, thuộc Họ Cà phê Rubiaceae. Cây này còn gọi là cây Ngao, Nhàu núi, Giàu… Cây Nhàu cao chừng 6 – 8m, thân nhẵn, thường mọc hoang ở nơi ẩm thấp, dọc bờ sông suối. Cây có nhiều cành to, lá mọc đối hình bầu dục, nhọn ở đầu, dài 12 – 15 cm. Hoa nở vào tháng 1 – 2, quả chín vào tháng 7 – 8. Quả hình trứng, xù xì, dài chừng 5 – 6 cm, khi non có màu xanh nhạt, khi chín có màu trắng hồng, mùi nồng và cay. Ruột quả có một lớp cơm mềm ăn được, chính giữa có một nhân cứng. Nhân dài chừng 6 – 7 mm, ngang chừng 4 – 5 mm, có 2 ngăn chứa 1 hạt nhỏ mềm (xem ảnh). Từ lâu nhân dân Miền Nam đã dùng một số bộ phận như dùng rễ, lá và quả của cây Nhàu làm thuốc.


Cây nhàu

Cây Nhàu đã và đang được các cơ sở nghiên cứu, sản xuất dưới nhiều dạng bào chế khác nhau, không chỉ để bồi dưỡng sức khoẻ mà còn có tác dụng chữa một số bệnh. Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Y tế Domesco – tỉnh Đồng Tháp; Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25 là một trong những Công ty đi đầu trong nghiên cứu và sản xuất các dược phẩm đặc chế từ dược liệu quý này. Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Y tế Domesco, tỉnh Đồng Tháp đã có thuốc viên Morinda Citrofolia (viên bao phim và viên nang); Nước ép trái Nhàu Doromi; Rượu Morinda và Rượu trái Nhàu. Những sản phẩm trên đã được Bộ Y tế cấp Số đăng ký và lưu hành trên toàn quốc. Đặc biệt viên bao phim Morinda Citrofolia đã và đang được xuất khẩu ra thị trường Thế giới.

(0)

Người bị chứng mất ngủ thường hay thức giấc giữa giấc ngủ, giấc ngủ bị xáo trộn vì mộng mị, có khi nằm thao thức cả đêm, thường có các triệu chứng kèm theo như chóng mặt, nhức đầu, hồi hộp, ăn không tiêu, biếng ăn, mệt mỏi hay quên.

Những món ăn trị mất ngủ

Canh rau nhút (rau rút) gồm có: Rau nhút non, lá vông nem non, khoai sọ, củ súng, tôm hoặc thịt lợn nạc tùy thích.

Rau nhút bỏ cọng già, bỏ lớp bông trắng bên ngoài thân, để nguyên lá, cắt đoạn ngắn. Khoai sọ gọt vỏ cắt miếng. Củ sen, củ súng ngâm nước cho hết chát, bớt nhựa. Xắt lát mỏng, đổ nước vừa đủ nấu nhừ, thêm tôm, thịt và nêm gia vị. Cuối cùng cho rau nhút và lá vông non, chỉ hơi chín tái là được, ăn mới ngon. Muốn dễ ngủ thì dùng nhiều rau nhút, lá vông. Lá vông chỉ dùng trong những ngày đầu.

Canh hạt sen cung cấp nhiều dưỡng chất cho cơ thể

Canh thịt nấu hạt sen, khiếm thực: Thịt lợn 200g, hạt sen 50g, khiếm thực 50g. Thịt rửa sạch cho vào nồi cùng hạt sen, khiếm thực, nước vừa đủ, nấu canh, cho gia vị. Công dụng: Bổ thận, cố tỳ, ninh tâm, an thần, chữa mất ngủ, lưng đau, mộng tinh, di tinh, hoạt tinh, đi tiểu nhiều về đêm, đại tiện lỏng, hồi hộp, lo âu. Dùng trong ngày lúc nào cũng được.

Tim lợn hầm đương quy: Tim lợn 1 quả, đương quy 60g. Cắt tim lợn nhét đương quy vào, nước vừa đủ, nấu chín, lấy ra bỏ đương quy cho gia vị vừa ăn. Công dụng: chữa mất ngủ kèm bệnh tiểu đường, tâm huyết hư, dưỡng huyết, bổ âm, an thần định chí.

Canh hạt sen: Hạt sen 30g, nấu chín với nước thành canh, cho muối vừa ăn. Dùng trước khi ngủ 2 tiếng đồng hồ. Tác dụng: kiện tỳ hòa vị, định tâm an thần. Thích hợp với người bệnh tiểu đường mất ngủ, tỳ vị hư nhược, tâm thần không an.

Cháo khoai mài: Khoai mài tươi 100g, quế 15g, quả vải 5 quả, ngũ vị tử 3g, khoai mài bỏ vỏ cắt mỏng nấu với các thứ trên thành cháo. Ăn buổi sáng hoặc trước khi đi ngủ 60 phút.

Tác dụng: sinh tân chỉ khái, bổ phế thận, thanh tâm an thần, chữa mất ngủ và tiểu đường.

Cao quả dâu mật ong: Quả dâu tươi 100g, mật ong 300g. Cho quả dâu vào nồi, thêm nước vừa đủ, đun 30 phút, lại cho nước đun lần thứ 2, lọc nước, trộn 2 lần nước lại, cô đặc, thêm mật ong, đun sôi, cho vào bình, đậy kín. Khi dùng uống với nước ấm, mỗi ngày 2 lần vào sáng và tối trước lúc ngủ 60 phút. Công dụng: Bổ can, thận, an thần, thông tai, sáng mắt, trị suy nhược thần kinh, mất ngủ, tai ù, phiền khát, râu tóc bạc sớm.

Canh thịt lợn, hàu biển: Thịt hàu tươi 150g, thịt lợn nạc 150g, muối vừa đủ. Thịt lợn rửa sạch thái miếng, cho vào nồi cùng với hàu, nước vừa đủ, nấu canh, thịt chín thì cho gia vị là được. Ăn không phụ thuộc giờ giấc. Tác dụng: trị âm hư phiền táo, mất ngủ, hồi hộp, tim đập dồn.

Canh hành táo: Hành củ 7 cây, táo Tàu 20 quả. Táo rửa sạch, ngâm nở, cho táo vào nồi, nước vừa đủ đun 20 phút rồi cho hành vào, đun thêm 10 phút là được. Dùng không cần giờ giấc. Tác dụng: an tâm thần, ích tâm trí, chữa thần kinh suy nhược, mất ngủ nhiều, mộng mị, trí nhớ suy kém.

Canh tiểu mạch, cam thảo, táo Tàu: Tiểu mạch 60g, cam thảo 6g, táo Tàu 30g. Tiểu mạch xát vỏ, táo ngâm nở bỏ hạt, cho vào nồi cùng cam thảo, nước vừa đủ, đun to lửa tới sôi rồi chuyển nhỏ lửa đun tiếp khoảng 60 phút, gạn lấy nước. Uống lúc nào cũng được. Tác dụng: bổ dưỡng tâm can, an thần, định chí, chữa các chứng âm hư, mất ngủ, tinh thần hoảng hốt, buồn chán.

(0)

Theo nghiên cứu hiện đại, trong quả sấu có tới 80% là nước, 1% axit hữu cơ, 1,3% proteine, 8,2% gluxit… và chứa nhiều vitamin C. Còn theo Đông y quả sấu lúc xanh có vị chua hơi chát, khi quả chín có vị chua, ngọt, tính mát, có công năng tiêu thực chỉ khát, chỉ ho, tiêu đờm, sử dụng trị nhiều bệnh như nhiệt miệng khô khát, ngứa cổ, đau họng, nôn do thai nghén, say rượu, tăng cường tiêu hóa…

Quả sấu

Đơn thuốc chữa bệnh có sử dụng quả sấu:

Trị các chứng nhiệt miệng khô khát, ngứa cổ, đau họng: 4-6g cùi quả sấu khô đem sắc với 2 bát nước còn nửa bát, uống sau bữa ăn sáng. Hoặc 8g cùi quả sấu hãm với nước sôi uống trong ngày. Dùng trong một tuần liền. Hoặc có thể lấy cùi quả sấu chín đem dầm với muối hay đường ăn trong ngày.

Chữa nôn do thai nghén: Quả sấu xanh nấu với cá diếc hoặc thịt vịt. Cách chế biến: Cá diếc 2 con, moi ruột, rửa sạch để ráo nước, ướp gia vị, đem nấu với 2 bát nước, khi nước sôi cho khoảng 1-3 quả sấu đã nạo vỏ, đun trong 7-10 phút bắc ra rồi dầm sấu, nêm gia vị cho vừa ăn. Ăn lúc nóng hoặc có thể thay canh ăn với cơm. Mỗi tuần nên ăn khoảng 3-5 lần.

Chữa ho: Cùi quả sấu tươi 15g, ngâm với ít muối, ngày ngậm 3-5 lần, tốt nhất nên ngậm vào buổi sáng và tối trước khi đi ngủ. Hoặc cùi sấu 25g sắc với 250ml nước còn 100ml, chia làm 2 lần uống, khi uống cho thêm đường. Uống trong 3 ngày.

Giải rượu: 10g cùi sấu đem hãm với nước sôi để uống, cách 30 phút lại uống một lần.

Tăng cường tiêu hóa, giúp ăn ngon miệng: 200g quả sấu tươi đã cạo vỏ đem hấp với đường, khi dùng pha với nước uống trong ngày. Ngày uống 2-3 lần. Hoặc có thể dùng quả sấu để nấu canh chua với thịt nạc băm hoặc thái miếng nhỏ mỏng, món này vừa dễ làm, bổ dưỡng có tác dụng thanh nhiệt và kích thích tăng cường tiêu hóa, giúp ăn ngon miệng.

(0)

Thực phẩm dinh dưỡng cao
Cua đồng là cua nước ngọt, phổ biến ở khắp nước ta. Cua sống và đào hang ven các thủy vực (ao, hồ, đầm, ruộng nước…). Cua là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao: toàn thân con cua đều dùng được. Cua có hàm lượng protein cao, giàu vitamin và đặc biệt là các nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể con người. Cách sơ chế cua đồng thật giản đơn.

Cua đồng
Thời vụ cua béo chắc thường là vào mùa hè. Chọn cua càng to, lưng gù là cua chắc, có nhiều thịt. Bỏ cua vào nồi đổ nhiều nước, dùng que (hoặc đũa) khoắng và thay nước nhiều lần để làm sạch bùn đất bám ngoài thân cua.

Theo Đông y, cua đồng có vị mặn, tính hàn, có tác dụng hoạt huyết, chữa tổn thương gân, xương, sản phụ máu không ra hết sinh đau bụng, trong lòng bồn chồn phiền muộn, trẻ em hở thóp, chữa bệnh cảm phong tà phát sốt, giải các thứ độc, hút được độc ra ngoài cơ thể, chữa mụn nhọt, giúp cứng xương, nuôi gân. Trong trước tác của Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông đều có nói tới tác dụng chữa bệnh của cua đồng.

Theo các tài liệu của Trung Quốc, cua đồng có tác dụng điều trị các triệu chứng ung thư rất tốt. Bệnh nhân ung thư vòm họng thường bị nổi hạch ở cổ, cua đồng có tác dụng “tiêu hạch, tán kết” nên ăn cua đồng là rất tốt. Đối với bệnh nhân ung thư tuyến vú cho ăn cua đồng và lấy mai cua, càng cua rửa sạch, phơi khô, nghiền thành bột mịn pha với nước uống rất thích hợp.

Những bài thuốc từ các món cua đồng

Chữa bị thương sưng đau – cua đồng 10 con, rửa sạch, bỏ mai, yếm giã nhỏ cho nước vào lọc lấy 100 ml nước cua đặc, cho 20 ml rượu trắng vào quấy đều, chia làm 2 lần dùng trong ngày và dùng liền 2 – 3 ngày; Chữa mất ngủ, trong người bồn chồn – nấu canh rau rút, khoai sọ với cua đồng cho ăn vào buổi chiều, ăn liền 5 ngày; Chữa trẻ em hở thóp – cua đồng 1 con rửa sạch giã nhỏ cùng 10g bạch cập đắp vào thóp trẻ, dùng băng buộc lại 10 tiếng đồng hồ rồi bỏ đi. Hai ngày sau lại làm lại. Làm 5 lần liền; Chữa viêm vú cấp – lấy 10 cái mai cua rang chín vàng sẫm, tán bột mịn ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g với nước pha 50% rượu trắng; Chữa sốt sau sanh – mai cua 100g, cho vào nồi đất đậy kín, đốt lửa xung quanh sau 1 giờ lấy mai cua tán bột mịn cho uống ngày 3 lần, mỗi lần với nước sôi để nguội pha 50% rượu trắng; Thúc đẻ, xuống thai – càng cua 60g với một lượng hoàng tửu (rượu vàng) vừa phải sắc với nước rồi uống. Sau sanh máu không thông – 3 con cua đồng hấp chín với rượu vàng (hoàng tửu) ngày uống 1 lần, khi thông huyết thì thôi.

Chữa ong đốt – lấy cua đồng sống đem đốt tồn tính (đốt kín không có oxy), nghiền thành bột, trộn với mật ong bôi vào chỗ ong đốt ngày 2 lần; chữa sai trẹo khớp lưng – 3 con cua đồng rửa sạch, giã nhỏ trộn với 50g đường trắng đắp chỗ đau. Ngày thay 1 lần, đắp liền 3 – 5 ngày.
Lưu ý: do cua có tính hàn nên người có biểu hiện tỳ vị hư hàn (lạnh) cần hạn chế. Nếu người có cảm giác sợ lạnh, bị tiêu chảy không nên ăn cua. Gạch cua có nhiều cholesterol, nên người huyết áp cao, bệnh tim mạch hạn chế dùng. Khi ăn cua, nên ăn cùng lá tía tô, gừng để làm giảm bớt tính hàn của cua.

Con cua thường có 2 càng to và 8 cẳng (chân). Có loại cua đồng chỉ có 6 hoặc 4 cẳng (chân) hoặc có 1 mắt đỏ, dưới bụng có lông, trong bụng có xương, đầu, lưng có chấm sao, chân có khoang thì chớ ăn mà hại đến người.

(0)

Củ Tam thất (hay được gọi là củ Tam thất bắc) là một loại dược thảo quý, được biết đến là một phương thuốc dân gian rất tốt cho sức khỏe. Chính bởi vậy mà từ lâu củ Tam thất đã rất thường được sử dụng và được nhiều người tin sử dụng. Sau đây là 9 câu hỏi phổ thông và câu đáp lại phục vụ cho việc chọn lựa và sử dụng chính xác sản phẩm chất lượng cần biết.

1. Hai dạng chính của Tam thất.
Tam thất thường có dạng củ tươi và dạng bột. Nhưng hiện tại, bột Tam thất dễ làm giả nên cần lưu ý, khi muốn mua bột Tam thất thì tốt nhất nên chọn mua ở những nơi uy tín, có nguồn gốc rõ ràng, hoặc là mua Tam thất tươi rồi yêu cầu nhà thuốc tán bột. Ngoài ra, có thể dùng Tam thất tươi và làm các bước sơ chế tại nhà, tối ưu nhất là dùng đến đâu sơ chế đến đó.

2. Có thể dùng Tam thất mỗi ngày không?
Vì Tam thất có tính ôn nên có thể dùng Tam thất mỗi ngày đối với người có cơ địa thông thường, còn với những người sở hữu cơ địa quá nóng hoặc quá lạnh sẽ xuất hiện các tác dụng phụ như: Mụn nhọt, ngứa, dị ứng…

3. Có nên nhai Tam thất sống?
Trên thực tế một vài người nhai Tam thất sống đã bị rộp màng nhầy miệng, vì vậy để tối ưu nhất, có thể dùng bột hoặc thái lát Tam thất hãm với nước sôi, sử dụng cả nước nhai cả bã vừa đơn giản, có thể giữ được hương vị, những hoạt chất dễ bay hơi không mất đi, vừa có hiệu quả trị liệu tốt.

4. Tam thất thật sự trị được bệnh ung thư?
Hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào về việc Tam thất có khả năng chữa trị được ung thư cả. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp thực tế đã áp dụng thì Tam thất có thể làm chậm quá trình tiến triển và di căn của khối u.

5. Làm thế nào để biến mất vị đắng của Tam thất?
Vị đặc thù của củ Tam thất bắc là đắng, gây khó sử dụng, tuy nhiên vị đắng ấy là vị biểu lộ các hoạt chất đưa lại hiệu quả tốt nhất của Tam thất trong đó, thành ra khi chế biến chỉ nên làm sao hạ bớt vị đắng đó đi, khuyến cáo không làm mất hoàn toàn, vì như vậy sẽ làm mất đi công hiệu của Tam thất.

6. Sử dụng Tam thất nhiều bị vô sinh?
Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào tuyên bố việc dùng Tam thất sẽ gây vô sinh. Tuy nhiên, vì Tam thất có công hiệu tự bổ cường tráng, làm tăng nội tiết sinh dục, do vậy nếu sử dụng nhiều khi nhỏ tuổi có khả năng tác động đến hoạt động của các tuyến nội tiết về sau này.

7. Tại sao Tam thất không thể dùng cho nữ giới có thai?
Mặc dù Tam thất rất có lợi cho phụ nữ sau khi sinh nhưng khuyến cáo không được dùng cho phụ nữ đang mang thai. Vì Tam thất có tính ôn, mà trong khi đó, khi có mang cơ địa của người nữ giới thường nóng, nếu dùng sẽ gây ra những tác dụng phụ không tốt cho thai phụ và thai nhi
Tam thất khuyến cáo không sử dụng cho nữ giới mang thai
8. Tại sao củ Tam thất nam không đắt bằng củ Tam thất bắc ?
Tam thất nam (họ gừng chứ không phải là họ nhân sâm như Tam thất bắc ). Mọi người hay lầm lẫn giữa Tam thất bắc và Tam thất nam. Tam thất nam chỉ được sử dụng để hỗ trợ tăng cường tiêu hóa, tán ứ, thông kinh, hoạt huyết, tiêu thũng, chỉ thống, nó không có hiệu quả như Tam thất bắc.

9. Không có bệnh nhưng vẫn dùng Tam thất được không?
Tam thất hiện tại rất tốt cho sức khỏe với cả người bệnh và người sức khỏe thông thường, vì vậy nên những người không có bệnh vẫn có thể dùng Tam thất. Tuy vậy, vì nó là một loại thuốc nên khi sử dụng vẫn cần có sự chỉ dẫn, chỉ định và dõi theo của bác sĩ.

(0)