Tại hội thảo Diễn đàn chuyên gia ung thư các nước Đông Dương do Bệnh viện K tổ chức ngày 20/4 tại Hà Nội, GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K cho biết: Theo số liệu của Ghi nhận ung thư toàn cầu (GLOBOCAL) và ước tính của ghi nhận ung thư Việt Nam, mỗi năm Việt Nam có hơn 126.000 ca mắc mới và khoảng 94.000 người tử vong vì ung thư.

Trong xếp hạng 172 quốc gia và vùng lãnh thổ về tỷ lệ chết vì bệnh ung thư do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố tháng 5/2014, Việt Nam đứng ở vị trí 78.

Theo số liệu này, WHO xếp Việt Nam nằm trong 50 nước thuộc top 2 của bản đồ ung thư (50 nước cao nhất thuộc top 1).
Còn theo số liệu mới nhất trên trang http://Globalcancermap.com/, tỷ lệ trường hợp mắc ung thư hàng năm ở Việt Nam là 138.7/100.000 người. Theo đó, Việt Nam đứng ở 105 trên tổng số 179 nước trong bản đồ ung thư quốc tế về tỷ lệ mắc.

Các quốc gia có tỷ lệ mắc ung thư tương tự như Việt Nam bao gồm Indonesia, Thái Lan, Cambodia, Myanma,

Các quốc gia có tỷ lệ mắc ung thư thấp hơn Việt Nam bao gồm Ấn Độ, Brazil, Ai Cập…

Các nước cùng khu vực có tỷ lệ mắc ung thư cao hơn Việt Nam bao gồm Trung Quốc, Nga, Mỹ, Canada, Úc.

Ung thư – một trong những nguyên nhân gây tử vong cao do bệnh không lây nhiễm đang trở thành gánh nặng lớn tại các quốc gia trên thế giới, đặc biệt với các nước nghèo, các nước đang phát triển.

Tại Việt Nam, gánh nặng ung thư ngày càng gia tăng trên phạm vi cả nước và đòi hỏi sự quan tậm đặc biệt của toàn xã hội.

5 bệnh ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam

PGS Trần Văn Thuấn – Giám đốc Bệnh viện K Trung ương – Viện trưởng Viện nghiên cứu và phòng chống ung thư Việt Nam cho biết, xu hướng các bệnh ung thư đều gia tăng nhanh chóng từ năm 2000 trở lại đây. Trong đó, 5 bệnh ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam bao gồm:

1. Ung thư phổi

Đứng đầu danh sách những những căn bệnh ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam đó chính là bệnh ung thư phổi, đặc biệt là ở nam giới.

Cụ thể, số ca mắc ung thư phổi ở nam giới năm 2000 chỉ là 6.905 ca với 29,3 người/100 nghìn dân, thì đến năm 2010 con số này đã tăng lên 14.652 ca và tỷ lệ mắc là 35,1 ca/100 nghìn dân. Theo ước tính, đến năm 2020 tỉ lệ nam giới mắc bệnh ung thư phổi ở nước ta sẽ là 22.938 ca.

Mặc dù ung thư phổi được xác định 90% là do khói thuốc, tuy nhiên có rất nhiều phụ nữ không hút thuốc nhưng vẫn có nguy cơ bị bệnh. Lí giải về điều này, các bác sĩ cho biết, tình trạng hút thuốc lá thụ động là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến phụ nữ bị ung thư phổi.

Theo số liệu của Viện nghiên cứu và Phòng chống ung thư, số ca mắc ung thư phổi ở nữ giới năm 2000 chỉ khoảng 2.001 ca, tỷ lệ mắc là 6,5 người/100 nghìn dân thì sau 10 năm, con số này đã lên tới 5.709 ca và tỷ lệ mắc là 13,9/100 nghìn người dân. Ước tính đến năm 2020 số ca mắc ung thư phổi ở nữ giới sẽ là 11.656 ca.

2. Ung thư dạ dày

Ung thư dạ dày là căn bệnh đứng hàng thứ hai ở nam giới sau ung thư phổi và thứ ba ở nữ giới sau ung thư vú và cổ tử cung. Theo số liệu thống kê, năm 2000 số ca bị ung thư dạ dày tại nước ta là 5.711, sau đó tăng gấp đôi là 10.394 ca vào năm 2010. Và ước tính đến năm 2020 số bệnh nhân bị ung thư dạ dày sẽ là 11.502 ca.

So sánh cho thấy, tỷ lệ mắc ung thư dạ dày ở nữ thấp hơn ở nam giới nhưng nhìn chung cũng gia tăng nhanh.

3. Ung thư gan

Đứng thứ 3 trong danh sách những bệnh ung thư phổ biến ở Việt Nam đó là bệnh ung thư gan ở nam giới với số ca mắc là 5.787 ca. Năm 2010 số ca mắc bệnh ung thư gan ở cả nam giới và phụ nữ là 9.372 ca, tỷ lệ số người mắc trên 100 nghìn dân là 23,6 người. Ước tính năm 2020, tỷ lệ này sẽ lên tới 11.030 ca mắc.

Các chuyên gia cho biết, tỷ lệ ung thư gan ở nam giới luôn cao hơn phụ nữ là vì ngoài nguyên nhân mắc viêm gan vi rút thì đàn ông thường có thói quen uống rượu, hút thuốc lá… Và đây chính là 2 nguyên nhân hàng đầu dẫn tới bệnh.

4. Ung thư trực tràng

Thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 20 năm, tỷ lệ bệnh nhân ung thư đại trực tràng đã tăng gấp 5 lần. Cụ thể, ở nam giới số ca mắc năm 2000 là 2.878 ca, đến năm 2010 tỷ lệ này tăng gần gấp 3 là 7.568 ca, tỷ lệ người mắc trên 100 nghìn dân là 19 người và đến năm 2020 dự báo sẽ là 13.269 nam giới bị ung thư trực tràng.

Ở nữ giới, số lượng bệnh nhân bị ung thư trực tràng cũng tăng chóng mặt, năm 2000 là 2.566 ca, đến năm 2010 số ca ghi nhận đã lên 6.110 ca, số người mắc trên 100 nghìn dân là 14,7 người. Ước tính, đến năm 2020 số ca mắc bệnh này sẽ tăng lên 11.124 ca.

5. Ung thư vú

Ung thư vú là căn bệnh đứng đầu về các bệnh ung thư ở nữ giới. Năm 2000 số ca mắc ung thư vú ở Việt Nam chỉ có 5.536 ca. 10 năm sau, tức năm 2010 thống kê số bệnh nhân đã tăng hơn gấp đôi lên 12.533 ca, tỷ lệ số người mắc trên 100 nghìn dân là 29,9 người. Với mức độ tăng như hiện nay, ước tính đến năm 2020 số ca mắc ung thư vú sẽ lên tới 22.612 ca.

(0)

Bằng phương thuốc bí truyền, ông Nguyễn Minh Chu, thôn Tiền Đình, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, 60 năm qua đã chữa trị cho rất nhiều người khỏi bệnh sỏi thận.

Ông Nguyễn Minh Chu có vẻ ngoài hiền lành, chân chất, chân đi đất, quần xắn ống cao ống thấp. Trong ngôi nhà ba gian thấp lè tè đã có những vị khách tứ phương đến xin thuốc. Chưa kịp để khách nói gì, ông cười nói: “Các chị trẻ thế này chưa mắc bệnh sỏi thận được. Các chị đến đây có việc gì? Đến hỏi thuốc cho người thân hả?”.

Ông Nguyễn Minh Chu sinh ra trong một gia đình nghèo có 5 anh chị em (3 trai, 2 gái). Tuy nhiên, ông lại là người duy nhất được bố truyền lại cho bài thuốc nam chữa sỏi thận gia truyền. Ông nói về bài thuốc gia truyền của gia đình với giọng đầy tự hào: “Từ đời ông nội, đời bố, rồi bây giờ tới lượt tôi là đã trải qua 3 đời làm nghề thuốc Nam, nhưng tôi luôn tâm niệm một điều là chữa bệnh, cứu người để tu nhân, tích đức cho con, cho cháu chứ không phải vì mục đích kinh doanh lợi nhuận”.

Nơi ông Chu ở là một căn nhà ngói ba gian cũ kỹ, đồ đạc sơ sài. Tài sản trong nhà chỉ có chiếc tivi cũ là có chút giá trị. Nhưng với ông, quý giá nhất là những tấm bằng khen của Đảng, Nhà nước trao tặng, được ông treo ở vị trí trang trọng nhất trong nhà: Huân chương Kháng Chiến hạng Nhì, Bộ đội Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh Đoàn 559…

Trong nhiều trận đấu, ông đạt được nhiều thành tích, nhất là trong trận đánh cao điểm 62 ở Quảng Ngãi. Sau hai ngày chiến đấu giằng co ở cao điểm 62, ông đã liều mình chuyển khẩu đại liên từ cao điểm về làng Hòa Vinh (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) và tiêu diệt được 47 lĩnh Mỹ. Ông vinh dự được nhận bằng khen Dũng sĩ diệt Mỹ.

Hơn 60 năm làm thuốc, chữa bệnh, ông không thể nhớ hết được có bao nhiêu bệnh nhân ở mọi miền đất nước nhờ ông chữa. Cuộc trò chuyện của chúng tôi liên tục bị ngắt quãng bởi những cú điện thoại. Có người điện thoại tới nói đang trên đường đến lấy thuốc như đã hẹn, có người ở tận Nha Trang – Khánh Hòa, thậm chí có cả bệnh nhân ở TPHCM cũng điện thoại cho ông để nhờ tư vấn bệnh tình. Ông Chu còn nhiệt tình gửi thuốc qua đường bưu điện cho bệnh nhân nếu họ không có điều kiện ra lấy thuốc. Tiếng lành đồn xa, số người tìm đến nhà ông Chu ngày càng nhiều.

Ông kể: “Tôi nhớ ngày bố tôi còn sống, khi ấy tôi mới lên mười, ông cụ đã cho đi rừng cùng. Tôi biết những loại lá cây làm thuốc chữa sỏi thận từ ngày đó. Lớn lên, tôi chỉ được giao làm các công việc hái lá, rửa lá và giã. Mãi tới sau này, khi sắp mất, cụ mới truyền lại nghề cho tôi. Cụ không chữa được nhiều bệnh, nhưng riêng với sỏi thận thì chưa đầu hàng trường hợp nào”, ông Chu tự hào khi nói về bài thuốc gia truyền của gia đình mình.

Trị sỏi thận bằng nắm lá tươi: Sáng uống, chiều có thể ra sỏi

Phương thuốc đặc trị bệnh sỏi thận

Theo ông Chu, việc chữa bệnh bằng cây thuốc Nam, không giống như thuốc Bắc hay thuốc tân dược, mà phải chữa bằng cả tâm linh và cây thuốc. Qua cách lý giải của ông, chúng tôi mới hiểu tại sao các thầy lang thường thờ thần rừng, thần núi, thần cây để lấy được đúng cây thuốc chữa cho người bệnh.

Ông cho biết: “Tôi lấy lá thuốc ở núi Ao Giời, núi Hóp. Trước khi đi hái thuốc, ra khỏi cổng, nếu gặp người là tôi lại phải quay về rồi đi lại. Có cây tôi cắt ngọn, có cây cắt cả gốc. Có loại lá tôi chỉ được lấy vào lúc 5h sáng, có loại lấy vào lúc chiều tối khoảng 17h. Ông Chu cũng cho biết thêm, lấy lá thuốc cũng cần “hợp tay”, trước kia anh trai ông cũng thử theo ông lên rừng hái lá thuốc nhưng không lấy được, trong khi ông hái rất nhiều lá.

Bài thuốc chữa bệnh của ông Chu có gần 20 vị như: Cây bông lá đề, lá cau, chắt chuyền, cỏ xước, nha đam… Bí quyết trong phương pháp bốc thuốc của ông là sử dụng trực tiếp lá tươi kết hợp với vài loại lá phơi khô chứ không sao vàng hạ thổ như những thầy thuốc khác. Các loại lá thuốc đem về, ông rửa thật sạch, để ráo nước rồi đem vào giã cối.

Ông cho biết phải giã bằng tay thì lá mới tạo được bột và nhuyễn, chứ xay bằng máy thì không hiệu quả. Mỗi mẻ, ông giã tán trong khoảng 15 phút, lọc rồi pha chế với 1,5 lít nước sôi để nguội. Thuốc này uống trong ngày, thay cho nước lọc. Để dễ uống và bảo quản được lâu, người bệnh có thể cho vào tủ lạnh. Thấy chúng tôi tò mò về gần 20 vị thuốc, ông cười dí dỏm: “Tôi có nói hết 20 vị thì mọi người cũng không biết được đâu. Vả lại đây cũng là bí mật gia truyền, tôi xin phép không chia sẻ”.

Bài thuốc chữa sỏi thận của ông rất hiệu quả. Có những bệnh nhân sáng uống thuốc, chiều ra sỏi – đó là những trường hợp bị nhẹ. Có trường hợp sốt ruột muốn sỏi ra ngay, ông cho biết có thể làm được nhưng như vậy sẽ rất nguy hiểm, cần phải uống thuốc để sỏi mòn, ra từ từ. Với sỏi kích thước khoảng 1 – 2 ly, ông khẳng định chỉ uống thuốc nửa tháng là khỏi. Loại sỏi nặng 4 – 5 ly, chỉ cần uống hết 10 chai thuốc nước của ông là khỏi (mỗi chai 1,5 lít).

Tại nhà ông Chu, chị Nguyễn Thị Đào (Phủ Lý, Hà Nam) chia sẻ: “Tôi đã uống hết 10 lít nước thuốc của thầy và khỏi bệnh. Thuốc dễ uống vì mùi thơm, mát của cây cỏ. Nay tôi lại lên đây, đặt thầy làm thuốc cho đứa em gái. Em gái tôi cũng bị sỏi thận, đi chữa ở bệnh viện mà chưa có dấu hiệu thuyên chuyển gì”.

Ông Nguyễn Văn Thành, Hội Người cao tuổi thôn Tiền Đình cho biết: “Tôi bị sỏi thận hành hạ nhưng khi uống thuốc của ông Chu, được mấy hôm bệnh tình đã chuyển biến, đi tiểu đỡ buốt, tôi đặt uống thêm mấy chai cho dứt điểm”. Ông Thành cười sảng khoái.

Không chỉ có tài chữa sỏi thận, ông Chu còn chữa được rắn cắn. Người đi rừng, nếu bị rắn cắn, lấy lá bòn bọt chữa là hết độc. Trước hết băng chặt phần trên vết thương lại cho máu độc không lan rộng, sau đó đem thái hoặc giã lá bòn bọt, lọc lấy nước, cậy mồm bệnh nhân, đổ từ từ nước xuống cổ. “Đặc biệt, có cách chữa mẹo mà bố ông truyền lại, lấy vài sợi tóc, vò rối lại và đánh trực tiếp vào vết thương bị rắn cắn. Cách này có tác dụng loại bỏ nọc độc của rắn”, ông Chu cho hay.

(0)

Bài thuốc nam điều trị bệnh tiểu đường dưới đây được đúc kết theo kinh nghiệm dân gian và được người dân sử dụng có hiệu quả.


Trong kinh nghiệm dân gian, nhân dân ta có nhiều bài thuốc nam điều trị các bệnh lý nội khoa mãn tính có tác dụng tốt, lại tránh được những tác dụng phụ. Trong đó có bài thuốc nam điều trị bệnh tiểu đường. Hiện ở Quy Nhơn (Bình Định) có nhiều bệnh nhân bệnh tiểu đường đang sử dụng có kết quả bài thuốc nam sau đây.

1. Lá sa kê úa vàng rụng xuống đất (không dùng lá sa kê tươi đang ở trên cành)

Lá sa kê có tên khoa học là Artocarpus incia L, thuộc họ Dâu tằm Moraceae, cây thân gỗ cao 10-12m có thể cao 15m, tán lá rất đẹp, phiến lá to, dài 30-50cm, rộng 10-12cm. Cụm hoa đực có hình chùy và chỉ có một nhụy, cũng có khi hoa đực tụ họp giống như đuôi con sóc dài 20cm. Cụm hoa cái hình cầu hoặc hình ống.
Qủa sa kê rất to, giống như quả mít tố nữ, hình tròn hoặc hình trứng, đường kính 10-20cm, vỏ màu xanh lục hoặc màu vàng nhạt, thịt quả rất nạc trắng và chứa nhiều bột. Qủa sa kê mọc thành từng chùm vài ba quả không có hạt, nhưng cũng có quả có hạt chìm trong thịt quả. Cây sa kê chịu đất khô ẩm, các tỉnh phía Nam nước ta nhân dân trồng nhiều sa kê vừa thu quả để ăn vừa làm cây cảnh che mát trong vườn nhà.

Qủa sa kê thường chế biến các món ăn như thái lát nhỏ rán với mỡ, bơ ăn thom ngon như bánh mỳ, còn dùng hầm nấu ca ri, bột sa kê làm bánh pho mát, bánh ngọt, nấu với tôm cá, với gạo ăn có chất dinh dưỡng cao.

2. Quả đậu bắp còn có tên mướp tây

Tên khoa hoc là Abelmoschusesculentus, một loại cây thân mềm sống khoảng một năm, cao 1-2m, thân hình trụ có nhiều lông và nhám. Cây có nhiều cành vươn thẳng lên cao, không xòe ngang, lá mọc so le, hình chân vịt, chia 5 thùy hẹp, xẻ đến phần nửa. Hoa 5 cánh màu vàng mọc ở hai kẽ lá, có màu đỏ ở giữa quả hình thoi, dài 10-12cm, đầu quả vót nhọn.
Đậu bắp luộc chín vừa hoặc rửa sạch ngâm nước muối 09% ăn sống, nấu canh chua, xào nấu chung với giá đậu xanh, dưa leo …

3. Ổi, búp ổi

Còn có tên gọi là phan thạch lựu, có tên khoa học là Psidum guajava. L, thuộc họ Sim Myrtaceae. Ổi chịu đất khô, cát sỏi, đồi núi, ổi cũng thường mọc hoang ở triền đồi núi.
Trong điều trị thường dùng ổi còn xanh, chát tốt cho tiêu hóa thể lỏng, ổi chín có tác dụng nhuận trường, thịt quả ổi chứa nhiều vitamin có tác dụng ngăn ngừa cảm cúm, sốt siêu vi, cải thiện cấu trúc da tốt hơn…

Trong điều trị bệnh nhân đái tháo đường dùng 3 thứ trên theo công thức:

– Lá sa kê vàng rụng tách khỏi cây 100 gam

– Đậu bắp 100 gam

– Búp ổi tươi 20 gam

Ba thứ trên cho vào nồi hoặc ấm đất nấu với 2 lít nước đun lửa than còn lại 500 ml chia uống thường xuyên trong ngày.

Ngoài ra, với bệnh tiểu đường phải thực hiện tốt chế độ ăn uống hàng ngày như mỗi bữa ăn chỉ cần một bát cơm và hai bát rau, phải kiêng khem các thức ăn giàu tinh bột như bánh mỳ, khoai lang, khoai mỳ, nên ăn bánh tráng và bún tươi thay cơm càng tốt.

(0)

Thừa hưởng bài thuốc quý trị tiểu đường ông nội truyền lại, ông Trần Đình Tuấn đã cứu chữa thành công cho hàng trăm ca bệnh tiểu đường.


Bài thuốc này xuất phát từ đồng bào dân tộc Xơ Đăng, gồm những thảo dược quý hiếm từ núi rừng Tây Nguyên. Theo thời gian, nguồn thảo dược dần khan hiếm, ông Tuấn (SN 1962, ở thôn An Lạc 1, xã Mỹ Hòa, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định) lại mày mò tìm kiếm các vị thuốc thay thế có công dụng tương tự để bài thuốc không bị thất truyền.

Cơ duyên với bài thuốc quý

Vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ông Trần Đình Tuấn sống trong vòng tay bảo bọc, che chở của ông bà nội. Lớn lên ở mảnh đất nghèo khó và nhiều bom đạn của chiến tranh nhưng ông Tuấn vẫn cố gắng học lấy cái chữ để làm gương cho con cháu đời sau. Năm 1990, ông Tuấn theo ông nội (cụ Trần Phước – SN 1920) đi làm thợ mộc ở các tỉnh Tây Nguyên kiếm tiền phụ giúp gia đình. “Đợt xẻ gỗ làm nhà rông cho đồng bào Xơ Đăng tại làng Cúc (tỉnh Gia Lai), ông nội tôi phát hiện bị tiểu ngọt (tiểu đường) nên người yếu đi hẳn. Thấy vậy, già làng ở đó đã lên rừng hái lá, sắc thuốc cho ông uống. Chẳng biết những loại cây rừng ấy là gì nhưng hơn hai tháng sau, bệnh tình của ông tôi thuyên giảm rõ rệt”, ông Tuấn nhớ lại.

Để trả ơn cứu mạng của đồng bào Xơ Đăng, hai ông cháu nhất quyết không lấy tiền công làm nhà. Cảm mến sự thật thà, chăm chỉ của hai ông cháu, già làng đã truyền lại nguyên gốc bài thuốc trị chứng tiểu ra đường. Sau này khi về quê, cụ Phước nhiều lần tái phát bệnh đều tự hái thuốc chữa trị. Năm 2005, ông Tuấn được ông nội truyền lại công thức bài thuốc. Biết ông nội rất tâm huyết với bài thuốc Nam này nên ông ra sức miệt mài học hỏi, lên rừng hái thuốc, chọn cây, phơi sao, ghi nhớ kỹ liều lượng.

Bài thuốc của người dân tộc chữa khỏi hàng trăm ca tiểu đường

Năm 2008, ông bắt đầu theo nghề bốc thuốc và chỉ chữa tiểu đường, lúc đầu là chữa cho bà con lối xóm, rồi đến nhân dân trong xã, huyện. Thuốc uống giảm bệnh, tiếng lành đồn xa nên bệnh nhân từ các huyện trong tỉnh cũng nườm nượp kéo về. Không những thế, nhiều người ở tận TP.HCM, Hà Nội, Đà Lạt, Kiên Giang… cũng tìm đến ông nhờ chữa bệnh. Đến nay, thuốc của ông Tuấn đã chữa khỏi bệnh cho hàng trăm bệnh nhân trong và ngoài tỉnh. Những năm gần đây, nhiều bệnh nhân tìm đến nhờ chữa trị nhưng số lượng thảo dược trong nhà có hạn nên ông không giúp được nhiều. Nhìn người bệnh lặn lội hàng trăm cây số đến nơi nhưng lại về tay không, ông vô cùng áy náy. Vậy là, ông lại lặn lội lên rừng tìm thuốc.

Ông cho biết: “Bài thuốc của đồng bào Xơ Đăng độc đáo là ở những vị thuốc và cách kết hợp chúng. Công thức thì từ lâu tôi đã khắc ghi trong lòng. Cái khó là những cây thuốc ấy chỉ có ở những vùng núi cao Tây nguyên, muốn tìm kiếm không dễ chút nào. Tôi thường lặn lội lên tận vùng núi giáp ranh Bình Định – Gia Lai tìm kiếm nhưng cũng không được nhiều. Trong quá trình tìm hiểu về Đông y, tôi nhận thấy rằng, bệnh tật trời sinh, cây cỏ cũng trời sinh, nên phải lấy cây mà trị bệnh. Tôi đã học được bài thuốc thì chữa bệnh cứu người phải là cái nghiệp, dù khó khăn đến mấy cũng không được để thất truyền bài thuốc quý”.
Giấy chứng nhận hoàn thành khóa học về Đông y của ông Tuấn do Học viện Y dược học Cổ truyền Việt Nam cấp.

Bệnh thuyên giảm sau nửa năm dùng thuốc

Về việc hành nghề chữa bệnh của ông Tuấn, ông Lê Văn Thể, Chủ tịch UBND xã Mỹ Hòa xác nhận: “Xã Mỹ Hòa có 12 hộ dân bốc thuốc chữa bệnh, ông Tuấn cũng là một trong số đó. Ông Tuấn không chữa bệnh theo kiểu mê tín dị đoan, không gây mất an ninh chính trị xã hội. Bệnh nhân đến nhà ông Tuấn lấy thuốc mang về chứ không lưu trú, tụ tập đông người nên không gây ảnh hưởng gì đến trật tự ở địa phương. Ông Tuấn cũng đã trình đủ các loại chứng chỉ để hành nghề y theo như quy định của pháp luật”.

Ông Tuấn cho biết, bài thuốc trị tiểu đường của đồng bào Xơ Đăng có gần chục vị, trong đó phân nửa là thảo dược lấy từ Tây Nguyên với các tên gọi theo tiếng dân tộc. Vài năm gần đây, các loại thảo dược này ngày càng khan hiếm. Để duy trì được công việc chữa bệnh cứu người, ông Tuấn phải ngược xuôi lên Tây Nguyên tìm thuốc. Ông lên các bản làng nhờ đồng bào đi tìm và gửi xuống rồi trả tiền công cho họ. Hiện tại công việc vận chuyển thuốc được con gái của ông hiện đang sống tại Gia Lai phụ giúp.

Nhận thấy việc tìm thuốc như vậy khiến công việc trở nên bị động, ông Tuấn nghĩ tới việc tìm kiếm các thảo dược thay thế. Các vị thuốc này chẳng những phải có ở miền xuôi mà yêu cầu bắt buộc phải có công dụng tương tự các thảo dược trên cao nguyên. Để làm được điều này, ông Tuấn đã phải ròng rã tìm kiếm cả năm trời. “Có loại cây thuốc chỉ có đặc điểm gần giống thôi nên sau khi lấy về nhà tôi phải sơ chế kĩ, bảo quản trong điều kiện thích hợp thì mới phát huy cái lợi và loại bỏ cái hại của vị thuốc…”, ông Tuấn cho biết.

Sau khi lấy thảo dược về, ông Tuấn trực tiếp sơ chế từng loại cây, rễ. Tùy vào thể trạng, tình trạng bệnh mỗi bệnh nhân mà ông có cách pha trộn thuốc theo nhiều tỷ lệ khác nhau. Tuy có sự thay đổi dược vị, liều lượng nhưng bài thuốc trị tiểu đường của ông gồm chủ yếu một số vị sau: Dây khổ qua rừng (mướp đắng): Cả dây và lá thái thành đoạn, khoảng 15g. Cây bồ ngót: Cả cành và lá thái thành lát mỏng, khoảng 20g. Dây xấu hổ (trinh nữ): Cả cành lá và rễ thái thành đoạn, khoảng 15g. Lá lốt: Cả cành và lá, thái thành đoạn, khoảng 10g. Dây lạc tiên: Cả cành lá và rễ thái thành đoạn, khoảng 20. Dây lưỡi đồng: Cả cành lá và rễ thái thành đoạn, khoảng 20g. Tất cả đều được phơi khô dưới ánh nắng mặt trời, trộn đều, cho vào 4 chén (bát) nước giếng, đun sôi nhỏ lửa còn lại 1 chén, uống 1 lần vào buổi sáng trước khi ăn. Nước 2 cho vào 3 chén nước, đun sôi nhỏ lửa còn lại 0,8 chén, uống vào buổi trưa trước khi ăn. Nước 3 cho vào 2 chén nước, đun sôi nhỏ lửa còn lại 0,6 chén, uống vào buổi tối trước khi ăn.

Cụ thể với những bệnh nhân sức khỏe yếu, ông Tuấn cho nhiều vị thuốc có công dụng bồi bổ. Với những người mạnh khỏe thì có thể cho thêm nhiều vị thuốc trị bệnh. “Bài thuốc này làm giảm bớt các triệu chứng khó chịu, cải thiện thể trạng cho người bệnh và ngăn ngừa những biến chứng do tiểu đường gây ra. Đồng thời, nó giúp đào thải độc tố trong tuyến tụy, cung cấp những dưỡng chất bổ sung cho tuyến tụy giúp tuyến tụy được hồi phục và hoạt động trở lại bình thường Tác dụng hạ đường huyết của các vị thuốc chỉ có giới hạn, tùy vào mức độ nặng nhẹ của bệnh mà có cách dùng thuốc thích hợp. Vì đặc điểm căn bệnh, bệnh nhân thông thường phải mất đến nửa năm dùng thuốc mới có dấu hiệu thuyên giảm. Trong quá trình dùng thuốc người bệnh kiêng ăn uống đồ ngọt và phải thường xuyên theo dõi nồng độ đường trong máu để điều chỉnh phù hợp”, ông Tuấn cho biết.

Về bài thuốc trị tiểu đường của ông Tuấn, lương y Phó Hữu Đức, Chủ tịch Hội Đông y Cầu Giấy (Hội Đông y Hà Nội) cho biết: “Bài thuốc này có một số vị có tác dụng trong việc điều trị tiểu đường. Trong đó, tác dụng mạnh nhất là dây khổ qua rừng. Đây là loại cây mọc tự nhiên ở nhiều vùng rừng núi nước ta. Theo Đông y, mướp đắng tính hàn, vị đắng, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu độc. Theo y học hiện đại, mướp đắng có tác dụng diệt vi khuẩn và virus, chống lại các gốc tự do là nguyên nhân gây lão hóa và phát sinh các bệnh tim mạch, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, tổn thương thần kinh, viêm đường tiết niệu, bệnh tiểu đường…; có tác dụng sinh học giống insulin, giúp cơ thể tăng tiết insulin, rất tốt với bệnh nhân tiểu đường tuýp 2. Cây bồ ngót cũng được sử dụng nhiều trong các bài thuốc Nam điều trị đái tháo đường. Còn các vị còn lại như lá lốt, dây mắc cỡ, dây lạc tiên… có tính hàn, giải độc, tiêu viêm. Có lẽ ông Tuấn sử dụng các vị thuốc này để điều trị các biến chứng cho bệnh nhân tiểu đường”.

(0)

Sỏi thận gây ra nhiều đau đớn, khó chịu. Đu đủ xanh là bài thuốc trong dân gian được dụng trị sỏi thận tương đối tốt.


Trị sỏi thận với đu đủ xanh

Cách 1:

Đu đủ gần chín để cả quả luộc thật chín bỏ hạt ăn phần thịt cho thêm ít muối lấy thìa xúc ăn ngày 2 lần.

Cách 2:

Dùng hoa đu đủ đực tươi 300g (khô 150g sao vàng hạ thổ) sắc uống, cách sắc 4 chén nước còn 1 chén uống trong ngày, 5 – 7 ngày uống một lần.

Cách 3:

Trái đu dủ còn xanh, vừa đủ ăn cho 1 người, cắt đầu đuôi, khoét bỏ hột đi, giữ nguyên vỏ, bỏ chút muối vô trong, nấu cách thủy cho mềm, để nguội ăn hết cả vỏ, nếu là trái lớn có thể ăn ngày hôm sau (Nên tìm trái nhỏ ăn 1 ngày thì tốt hơn);ăn trong 1 tuần.
Đu đủ xanh là bài thuốc trị sỏi thận trong dân gian.
Lưu ý khi trị sỏi thận bằng đu đủ

Ăn đu đủ chín nhiều ngày có thể lòng bàn tay chân hơi vàng, do một loại trong số 19 carotenoid trong đu đủ đào thải chậm chưa đào thải hết gây vàng da khi không dùng hiện tượng vàng da tự hết.

Đu đủ xanh có tác dụng tiêu mạnh, ăn lúc đói hay bị xót ruột. Phụ nữ mới có thai không nên ăn nhiều đu đủ xanh.

Trong quá trình chữa bệnh, người bệnh nên uống thêm nhiều nước, ăn nhiều hoa quả và hạn chế các loại thực phẩm nhiều canxi.

Trước khi áp dụng phương pháp chữa sỏi thận này người bệnh cũng nên đi khám xem mình bị loại sỏi thận nào để kết hợp với các phương pháp điều trị khác cho hiệu quả nhất.

(0)

Vai trò của hoa thiên lý đối với bệnh trĩ
Cây hoa thiên lý là một loại cây rất dễ trồng nếu như bị bệnh trĩ chúng ta có thể kiếm được loại thảo dược này rất dễ dàng.

Để chữa bệnh trĩ bằng cây thiên lý quý vị hãy lấy 100 g cây hoa kết hợp với 5 g muối ăn. Sau đó rửa thật sạch lá để ráo nước rồi giã với muối tiếp theo thêm khoảng 30 ml nước rồi lọc qua tấm vải màn, và tiến hành tẩm vào bông và đắp lên vùng hậu môn chỗ trĩ đã rửa sạch bằng thuốc tím hoặc dung dịch muối loãng. Mỗi ngày hãy làm như vậy khoảng từ 1-2 lần. Đặc biệt đây cũng là bài thuốc được dùng để chữa bệnh sa dạ con ở phụ nữ.

Một số lưu ý khi chữa bệnh trĩ bằng hoa thiên lý


Bệnh trĩ có rất nhiều cấp độ khác nhau mỗi cấp độ sẽ có những phương pháp điều trị riêng. Đặc biệt trong dân gian có rất nhiều bài thuốc đông y chữa bệnh trĩ rất hiện quả chính vì thế khi mắc bệnh trĩ quý vị cũng có thể thử các bài thuốc từ thảo dược vì nó không ảnh hưởng đến sức khỏe mà có thể trị được bệnh hiệu quả và rất an toàn.

Còn nếu trong trường hợp bệnh không khỏi khi sử dụng các bài thuốc đông y này quý vị có thể nhờ đến sự can thiệp của y học. Tuy việc chữa bệnh trĩ bằng hoa thiên lý được khuyến khích áp dụng trong những trường hợp bệnh ở giai đoạn đầu, bệnh nhẹ nhưng trong trường hợp nếu bệnh nặng, quý vị cần đến này các cơ sở chuyên khoa có uy tín để được điều trị kịp thời, nhằm tránh gây ra những hậu quả nguy hiểm, cũng như gây ra những khó khăn và rắc rối trong cuộc sống hàng ngày của người bệnh.

Nền y học hiện đại nên hiện nay các phương pháp điều trị bệnh trĩ cũng khá hiệu quả, do vậy để có những kết quả khả quan quý vị cần thăm khám và hỏi ý kiến bác sĩ về cách chữa trị thích hợp nhất.

(0)

Khi bị mất cân bằng nước, dịch, cholesterol,… dễ hình thành sỏi do các chất này không được hòa tan vào nhau, dẫn đến vón cục. Đa số mọi người không có triệu chứng gì cho đến khi sỏi lớn gây viêm đau.

Nếu thấy xuất hiện chứng tiểu buốt, tiểu khó, đau lưng (sỏi thận) hoặc chán ăn, ăn không tiêu, đau mạn sườn phải (sỏi mật, sỏi gan) thì nên đi siêu âm để kiểm tra, điều trị sớm.

Sỏi có thể điều trị bằng phẫu thuật, tia laser hoặc thuốc uống. Dù chọn phương pháp nào cũng cần kết hợp chế độ ăn kiêng, vận động hợp lý. Bạn nên kết hợp bổ sung thảo dược để hạn chế sỏi tái phát, cải thiện chức năng gan – mật – thận.

Kim Tiền Thảo

Theo y học cổ truyền, kim tiền thảo là một loại thảo dược có vị ngọt, tính bình giúp thanh nhiệt, lợi thấp, lợi niệu thông lâm, tiêu thũng bài thạch. Loại thảo dược này thường được dùng để chữa các chứng bệnh viêm đường tiết niệu, sỏi thận, sỏi mật, phù thũng do viêm thận, hoàng đản (vàng da),…

Trái sung
Trong thành phần của sung chứa đường glucose, saccarose; acid quinic, shikimic; một số vitamin (C, B1,…) và các nguyên tố vi lượng (canxi, photpho, kali,…). Nghiên cứu cho thấy, quả sung giúp hạ huyết áp, nhuận tràng và phòng chống ung thư, đặc biệt là chữa bệnh sỏi mật.
Kim Ngân Hoa

Kim ngân hoa có công dụng kháng khuẩn, chống viêm, hạ cholesterol trong máu, tăng bài tiết dịch vị và mật, lợi tiểu,… Đây là loại thảo dược dễ tìm giúp hỗ trợ điều trị các bệnh sỏi. Khi kết hợp với trái sung, kim tiền thảo,… sẽ tăng hiệu quả tán sỏi, cải thiện triệu chứng và chức năng gan – mật – thận của người bệnh.

Đặc biệt là với trường hợp sỏi quá cứng khó điều trị, bệnh nhân từng phẫu thuật lấy sỏi muốn phòng ngừa tái phát.
Nhân Trần

Nhân trần có tính bình, vị đắng, hơi cay, có tác dụng lợi mật, nhuận gan,… Người ta chỉ cần lợi mật khi mật không tiết ra (viêm mật, tắc mật,…) và nhuận gan khi gan có vấn đề.

Dùng thảo dược mang lại kết quả tốt trong việc điều trị sỏi mật, sỏi thận. Thế nhưng, chúng chỉ có tác dụng hỗ trợ tán sỏi và cải thiện chức năng chứ không thể điều trị dứt điểm. Người bệnh bên cạnh việc dùng thảo dược cần song song tiến hành dùng thuốc hay các biện pháp điều trị phù hợp khác.

(0)

Trong xã hội hiện đại, bệnh gan nhiễm mỡ đã trở thành một căn bệnh rất phổ biến. Tuy nhiên căn bệnh nguy hiểm này có thể được cải thiện bằng cách uống các loại trà dưới đây.

1 Trà gừng

Gừng là loại gia vị tự nhiên nổi tiếng chứa các hoạt chất chống viêm và giải độc. Nó có nhiều hiệu quả trong hỗ trợ điều trị gan nhiễm mỡ.

Theo nghiên cứu, các chất gingerol tạo vị cay nồng trong gừng có tác dụng như một chất chống oxy hóa mạnh mẽ, ngăn chặn sự tích tụ chất béo lipid trong gan. Đồng thời chúng còn giúp chống lại các nguyên nhân gây ra bệnh mất cân bằng oxy hóa.

Người bị gan nhiễm mỡ uống trà gừng đều đặn trong 2 tuần sẽ thấy được sự khác biệt rõ rệt.

2 Nước ép củ cải

Trong củ cải có chứa rất nhiều các chất chống oxy hóa giúp phá vỡ các mảng chất béo dư thừa tích tụ trong gan, cải thiện khả năng tự giải độc của gan.

Ăn củ cải sẽ giúp bạn kiểm soát được mức cholesterol và triglyceride ở trạng thái cân bằng. Ngoài ra, bạn có thể tiêu thụ củ cải bằng cách khác như chế biến thành nước ép củ cải.

3 Trà cải cầu vồng

Chế biến cải cầu vồng thành một món trà sẽ giúp tập trung tối đa các chất chống oxy hóa và giải độc. Từ đó hỗ trợ cải thiện chức năng gan, tăng cường sự tiêu thụ các hợp chất chất béo, đồng thời loại bỏ các độc tố ảnh hưởng đến lá gan.

Mọi thứ bạn cần làm đó là rửa sạch rau cải cầu vồng, sau đó cho vào nồi nước và đun nhỏ lửa trong 5 phút. Chắt lấy nước trà và thưởng thức. Khuyến cáo nên sử dụng 2-3 ly trà cải cầu vồng trong 2 tuần.

4 Nước ép bưởi chùm

Một trong những hợp chất chứa nhiều nhất trong bưởi chùm chính là naringenin. Đây là một trong những chất chống oxy hóa mạnh mẽ có tác dụng lợi tiểu, thúc đẩy loại bỏ các chất độc dư thừa và kiểm soát nguy cơ gây viêm.

Bên cạnh đó, bưởi cũng có khả năng chống lại các triệu chứng của Hội chứng chuyển hóa, một tình trạng có liên quan đến gan nhiễm mỡ và sự béo phì không kiểm soát được.

Tất cả các phương pháp điều trị trên đều có những ảnh hưởng rất tích cực trong việc điều trị gan nhiễm mỡ. Nhưng bên cạnh đó, đừng quên điều chỉnh lại chế độ dinh dưỡng và luyện tập hợp lí, khỏe mạnh cho chính cơ thể của bạn.

Gan nhiễm mỡ tuy không phải bệnh ác tính nhưng nếu như để lâu ngày có thể gây ra ung thư gan. Vì vậy, nếu bạn bị gan nhiễm mỡ ngay bây giờ thì hãy lên kế hoạch ăn uống thật hợp lý để cứu lấy bộ phận vô cùng quan trọng này.

(0)

Nhiễm vi khuẩn Helicobacter Pylori làm tăng 2-6 lần nguy cơ biến chứng ung thư từ các bệnh viêm loét dạ dày lành tính
Vi khuẩn HP – nguyên nhân hàng đầu gây viêm loét dạ dày, biến chứng ung thư

Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ viêm dạ dày mạn tính rất cao, chiếm khoảng 50% dân số, trong đó viêm dạ dày mạn tính do HP chiếm 95%.

Thông thường trong những năm đầu nhiễm vi khuẩn HP người bệnh sẽ mắc các bệnh về viêm loét dạ dày tá tràng, nhưng nguy hiểm hơn là có tới 70-80% người nhiễm vi khuẩn HP không hề có triệu chứng gì, vi khuẩn HP âm thầm phát triển.

Nếu tình trạng nhiễm trùng HP không được điều trị thì sau 10-20 năm sẽ khiến niêm mạc dạ dày bị tổn thương sâu, các tế bào bị xơ, viêm teo và bị thay thế bằng các mô sản ruột (di sản ruột). Sự viêm teo mạn tính kết hợp với mô sản ruột lan tỏa lâu ngày khiến sản sinh ra các tế bào ung thư ở dạ dày.

Triệu chứng lâm sàng của viêm dạ dày thông thường và ung thư dạ dày khó phân biệt, đều là đau rát vùng thương vị, đầy bụng, khó tiêu, chỉ chẩn đoán phân biệt khi nội soi dạ dày để quan sát tổn thương và lấy mẫu tế bào sinh thiết, làm các xét nghiệm khác.

Đại đa số bệnh nhân ung thư dạ dày phát hiện khi đau quá không chịu được, gầy sút nhanh và đã ở giai đoạn nguy hiểm, nên tiên lượng rất xấu, chỉ có 15% bệnh nhân sống thêm được 5 năm.

Ung thư dạ dày có thể lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể và cơ hội hồi phục thấp, gây tỷ lệ tử vong rất cao. Thời gian sống của người mắc bệnh trung bình thường dưới 1 năm bất kể khối u ban đầu nằm ở vị trí nào. Hiện tại, chưa có phương pháp nào để kéo dài khoảng thời gian này.

Vì vậy, cách tốt nhất là kiểm soát triệt để các nguyên nhân gây bệnh để hạn chế tiến triển thành ung thư dạ dày.

Kết hợp Đông tây y – một giải pháp để bỏ vi khuẩn HP

Việc sử dụng kết hợp Đông tây y được coi là một giải pháp để loại bỏ vi khuẩn HP. Bởi theo tây y, điều trị HP không khó, thời gian khoảng 2 tuần, với phác đồ ba thuốc kết hợp, tuy nhiên, hiệu quả điều trị còn phụ thuộc vào sự tuân thủ của người bệnh và tính kháng thuốc của vi khuẩn, tỷ lệ diệt trừ HP từ các phác đồ đó cũng chỉ dao dộng trong khoảng 61-94 %.

Các chuyên gia cũng cảnh báo môi trường a-xít dịch vị có thể làm mất tác dụng của các thuốc kháng sinh, khuẩn H. pylori lại nằm sâu dưới lớp nhày và trong môi trường a-xít có thể dễ dàng “lẩn trốn” được thuốc điều trị bệnh.

Đó là nguyên nhân chính khiến cho H. pylori có khả năng kháng thuốc và tiếp tục gây bệnh, sau nhiều đợt điều trị kháng sinh dài ngày mà bệnh cứ tái đi tái lại.

Nhiều bệnh nhân nhiễm HP phải dùng quá nhiều kháng sinh đâm ra sợ thuốc do các tác dụng phụ như rối loạn tiêu hóa, chán ăn, mệt mỏi, tổn thương gan thận, từ đó bỏ dở quá trình điều trị. Đây là một trong những nguy cơ dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như xuất huyết, thủng dạ dày – tá tràng, ung thư dạ dày.

Vì vậy sau những đợt kháng sinh dài ngày, để tránh tái nhiễm HP, gây khó khăn trong điều trị, người bệnh có thể kết hợp sử dụng các thảo dược có tính kháng khuẩn mạnh, giúp ức chế sự phát triển của vi khuẩn HP, mà không gây tác dụng phụ khi sử dụng thường xuyên, lâu dài. Trong đó nổi bật là Nano Curcumin, dạng bào chế công nghệ cao của tinh chất nghệ.

Nghiên cứu của các nhà khoa học Ấn Độ năm 2009 đã chứng minh Curcumin ức chế sự phát triển của cả 65 chủng HP, trong đó có nhiều chủng đã kháng metronidazol.

(0)

Mối quan hệ nhân quả, hay sữa chính là thủ phạm gây ung thư vẫn chưa được khoa học khẳng định mà nhiều bài báo đao to búa lớn, đã phán như đinh đóng cột rằng sữa là thủ phạm.

PV: Thưa ông, bài trước chúng ta đã bàn về sữa mẹ, bài này tôi muốn đối thoại cùng ông về sữa bò. Ngày tôi còn bé, sữa rất hiếm và được coi là nguồn dinh dưỡng quý, thỉnh thoảng ốm mới được ly sữa đặc pha loãng để bồi dưỡng. Vậy mà vài năm gần đây có rất nhiều ý kiến cho rằng sữa gây hại, nào gây ung thư, loãng xương, tim mạch… Ông nghĩ thế nào về vấn đề này?

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Lần trước chúng ta đã nói về sữa dành cho em bé, mà nguồn thực phẩm duy nhất của chúng là sữa. Bây giờ nói về sữa bò mà “người lớn” từ 5 tuổi trở lên có nên tiêu thụ hay không.

Uống sữa bò có lợi hay hại là đề tài gây nhiều tranh cãi với nhiều kết quả nghiên cứu đá ngược nhau, nhưng không phải nghiên cứu nào cũng có giá trị như nhau. Một số người vin vào đó, tranh cãi tới mức cực đoan: bên tẩy chay, bên ủng hộ. Có điều, bên Tây người ta uống sữa nhiều lắm, uống ké sữa của bò con, dê con, ngựa con… cả ngàn năm nay rồi.

Về “tác hại” của sữa bò thì nhiều lắm. Bạn muốn nói tới “tác hại” nào trước?

PV: Nói về ung thư trước đi, thưa ông. Có quá nhiều thông tin về sữa gây ung thư khiến nhiều người bỏ sữa ra khỏi thực đơn. Như cháu trai 7 tuổi “người lớn” nhà tôi, hàng ngày vẫn uống sữa để bổ sung canxi, nhưng quả thật cho cháu uống sữa tôi vẫn thấy e ngại, không biết nên uống tiếp hay nên bỏ.

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Uống sữa gây ra đủ loại ung thư thì bốc tưng cả lên, nhưng nói đến nhiều nhất là ung thư tuyến tiền liệt

Nhiều nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa uống nhiều sữa bò và tỉ lệ mắc bệnh ung thư tiền liệt tuyến, nghĩa là những người uống nhiều sữa bò rủi ro mắc bệnh này cao hơn hơn những người ít uống hoặc không uống sữa.

Nói cách khác, uống hay không uống sữa bò đều có thể bị ung thư tiền liệt tuyến, nhưng uống nhiều thì rủi ro cao hơn.

Sữa bò không phải là mối liên hệ duy nhất. Tuổi tác, di truyền, chủng tộc, lối sống, chế độ ăn uống… cùng liên hệ đến ung thư tuyến tiền liệt.

Khoa học đưa ra một số giải thích về mối liên hệ này, nhưng đó vẫn chỉ là suy đoán, chưa thể kết luận được rằng sữa bò là nguyên nhân gây ung thư tiền liệt tuyến.

Mối quan hệ nhân quả, hay sữa chính là thủ phạm gây ung thư vẫn chưa được khoa học khẳng định, kể cả ung thư vú, ung thư buồng trứng… mà nhiều bài báo đao to búa lớn, đã phán như đinh đóng cột rằng sữa là thủ phạm.

Tuy nhiên, nếu quý ông nào yếu vía, muốn phòng thủ từ xa, “bảo vệ” tiền liệt cho chắc ăn, thì có thể giảm uống sữa lại. Giảm uống sữa không có nghĩa là sẽ không bị ung thư tiền liệt tuyến.

PV: Người ta cũng nói nhiều về chuyện người nuôi bò dùng hormone để kích thích bò lớn nhanh và cho sữa nhiều nên trong sữa bò có chứa hormone có thể gây hại sức khoẻ nữa.Ý kiến của ông thế nào?

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Hormone đó có tên là bGH, do não con bò tiết ra để thúc đẩy sự sinh trưởng ở bò. Sau này người ta phát hiện ra, hormone bGH còn thúc đẩy bò mẹ tiếp tục ra sữa dù con bê đã lớn, có thể…”ăn dặm” được rồi.

Thế là để vắt được sữa bò nhiều hơn, khoa học tìm cách chế ra hormone bGH bằng cách chuyển gen vào một loại vi khuẩn để “ép” vi khuẩn này tổng hợp ra hormone bGH, và gọi hormone đó bằng một cái tên hơi dài dòng là, hormone tăng trưởng bò tái tổ hợp, viết tắt là rbGH (Recombinant Bovine Growth Hormone).

Về bản chất thì cả 2 loại hormone trên, bGH và rbGH, đều là protein, và đều có hoạt tính sinh học như nhau.

Hormone rbGH được tiêm vào bò, nhưng người ta không ngại thịt bò, mà lại ngại sữa bò. Cho đến nay, không có bằng chứng nào đáng tin cậy cho thấy hormone rbGH có ảnh hưởng đáng ngại đến sức khỏe con người cả.

PV: Nhưng vẫn có nhiều bài báo cho rằng hormone là thủ phạm gây ung thư cho người và đưa ra nhiều nghiên cứu để dẫn chứng.

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Các luận điểm chống đối sữa bò không “đập” được hormone rbGH, thì “đập” vào chất mà theo họ, là hậu quả của việc dùng sữa rbGH.

Đó là chất tăng trưởng tương tự insulin, gọi tắt là IGF-1 (Insulin-like growth factor-1). Trong sữa bò rbGH, người ta thấy lượng IGF-1 nhiều hơn so với sữa vắt từ bò không tiêm rbGH.

Chưa hết, nghiên cứu cũng cho thấy lượng IGF-1 trong máu của những người uống nhiều sữa bò cao hơn so với những người uống ít hoặc không uống sữa.

Thế là sóng gió “sữa bò hormone” nổi lên, vì hàm lượng IGF-1 cao trong máu được cho là có liên quan đến ung thư như, ung thư vú, ruột già, và cả ung thư tuyến tiền liệt như tôi đã nói ban nãy.

Cũng nên biết, IGF-1 là chất có tự nhiên trong cơ thể người, cần thiết cho tăng trưởng và phát triển ở người.

Mức dao động IGF-1 trong máu có thể gây ra do protein, khoáng vả nhiều thứ khác nữa, chứ không phải hễ IGF-1 tăng là đổ riệt cho sữa bò (trong thực tế là tăng không đáng kể). Lượng IGF-1 trong sữa bò, dù là sữa rbGH hay sữa từ bò không rbGH, đều rất thấp so với lượng IGF có sẵn trong cơ thể người.

Hơn nữa, sữa bò không phải là độc quyền làm tăng IGF-1. Uống sữa đậu nành cũng làm tăng mức IGF-1 trong máu.

Nhưng điều quan trọng hơn, đó là IGF-1 có liên quan gì đến ung thư hay không lại là điều chưa rõ ràng. Những nghiên cứu trước đây cho rằng có thể có sự liên quan, những nghiên cứu sau này lại cho thấy sự liên quan này rất mơ hồ. Khoa học chưa khẳng định IGF-1 gây ung thư, mà chỉ nói, có thể có liên quan đến ung thư. Đừng nhẫm lần giữa nguyên nhân và mối liên quan có thể.

Đánh giá nhiều nghiên cứu về chuyện sữa bò hormone, Cơ quan Quản lý Thực và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), WHO, FAO và kể cả Châu Âu, nơi mà hiện nay không cho phép dùng hormone rbGH trong chăn nuôi bò, cũng phải đồng ý rằng, sữa bò rbGH không ảnh hưởng gì đến sức khỏe cho người sử dụng cả.

PV: Ông nói hormone rbGH không ảnh hưởng đến sức khoẻ của người, thế sao châu Âu lại cấm dùng chất này?

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Vì họ thấy, tỉ lệ con bò tiêm rbGH bị viêm tuyến sữa nhiều hơn bò không tiêm. Bò bị viêm vú thì phải xài kháng sinh, và người ta e ngại dư lượng kháng sinh trong sữa sẽ tăng. Tiêu thụ sữa sẽ bị lờn kháng sinh.

Nhưng dùng kháng sinh trong thú y có “luật chơi” riêng của nó, chứ không thể xài vô tư được. Châu Âu cũng có “luật chơi” về dùng kháng sinh trong thú y đâu hiền lành gì. Và nếu xài kháng sinh thú y đúng “luật chơi” thì có hại cho người không?

Vú bò bị viêm, thì bò bị đau. Thật ra, lý do mà Châu Âu cấm dùng hormone rbGH chủ yếu là bảo vệ quyền lợi động vật, ở đây là quyền lợi của con bò, chứ còn vì lý do bảo vệ sức khỏe cho con người thì không đủ chứng cớ.

PV: Những người phản đối sữa bò còn cho rằng, sữa bò làm bé gái dậy thì sớm, cũng là do hormone gì đó có trong sữa…

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Đúng là có nghiên cứu cho rằng sữa bò liên quan đến việc xuất hiện kinh nguyệt sớm ở bé gái vị thành niên, còn có do hormone gì đó có trong sữa hay không thì tôi không biết.

Dậy thì sớm hay muộn liên quan đến nhiều yếu tố như di truyền, chủng tộc, dinh dưỡng, tâm sinh lý, trầm cảm, hoàn cảnh gia đình, xã hội…

Thực phẩm chỉ là một trong những yếu tố đó thôi. Trẻ béo phì dễ dậy thì sớm hơn. Béo phì là do ăn nhiều bột đường, thiếu luyện tập,… Ăn uống thiếu cân bằng, bổ béo, thịt thà nhiều quá, nhưng thiếu vitamin, khoáng…

Nghiên cứu trên dựa trên bảng trả lời của các đối tượng khảo sát, thành thử độ tin cậy kém. Đã chắc gì trẻ dậy thì sớm chỉ là do uống sữa, còn bao nhiêu thực phẩm khác mà chúng ăn vào có tính được hết không?

Nói chung, có nhiều liên quan đến dậy thì sớm không thể cứ sữa bò mà đổ tội được.

PV: Ông có cho rằng sữa làm cho xương chắc khỏe, và phòng chống loãng xương như các công ty sữa quảng cáo không?

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Calcium và vitamin D cần cho sự phát triển và duy trì sức khoẻ của xương là điều không bàn cãi nữa, nhất là với trẻ em. Sữa bò là nguồn cung cấp calcium và vitamin D dồi dào. Như vậy sữa tốt cho xương, ít nhất là với trẻ em.

Nhưng cũng lưu ý rằng, chế độ dinh dưỡng không hợp lý như thiếu đạm, dư phosphor, thiếu vận động…cũng góp phần vào vấn đề loãng xương

Một nghiên cứu cách nay 3 năm, khá ồn ào của đại học Uppsala, Thụy Điển, cho rằng uống sữa không thể giúp phòng chống loãng xương, gãy xương, thậm chí ngược lại.

Khảo cứu này cho thấy, phụ nữ uống trên 3 ly sữa mỗi ngày (khoảng hơn nửa lít), rủi ro gãy xương (các loại) tăng 16%, và rủi ro gãy xương hông tăng 60% so với nhưng người uống dưới 1 ly sữa.

Nhưng với quý ông thì trời thương, uống nhiều sữa chẳng bảo vệ, cũng không làm tăng rủi ro xương xẩu.

Điều thú vị là nếu không dùng sữa, mà tiêu thụ các sản phẩm từ sữa lên men như yogurt hay phó mát, thì lại làm giảm rủi ro gãy xương, đặc biệt với phụ nữ, nghĩa là kết quả hoàn toàn ngược lại với uống sữa.

Các nhà nghiên cứu của Thuỵ Điển giải thích, đó là do trong sữa có nhiều đường galactose, còn trong phó mát và yogurt không có loại đường này.

Đường lactose có nhiều trong sữa. Khi tiêu hoá, lactose bị cắt làm đôi thành galactose và glucose. Trong quá trình lên men sữa để làm phó mát hay yogurt, galactose bị phân giải, do đó sản phẩm lên men từ sữa không còn galactose nữa

Đường galactose được cho ra gây ra viêm và gây stress oxid hoá (oxidative stress). Hậu quả của stress này làm tăng mức tử suất và gãy xương.

Mặc dù nghiên cứu này khá hoành tráng, theo dõi cả hơn 100.000 người trong nhiều năm, lại cho biết thế nào là uống sữa nhiều, uống sữa ít, nhưng chỉ là nghiên cứu loại quan sát (observational study), nên độ tin cậy cũng giới hạn.

Nói uống sữa, mà là sữa loại gì? Sữa béo hay sữa gầy? Chất béo ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ của người lớn tuổi (đối tượng nghiên cứu). Điều này không thấy đề cập trong nghiên cứu. Hơn nữa, về tác hại của đường galactose mới thấy ở chuột, chứ chưa thấy ở người.

Vậy uống sữa (có nhiều calcium) có thể phòng chống loãng xương cho người lớn tuổi hay không? Thực tế cho thấy, uống sữa ít như dân Châu Á mà tỉ lệ gãy xương vẫn thấp hơn dân Tây uống sữa nhiều. Quảng cáo uống sữa phòng chống loãng xương rõ ràng đã đi quá trớn…

Mối quan hệ giữa calicium và loãng xương vẫn chưa được khoa học giải thích rõ ràng. Có thể do khả năng hấp thu calcium ở người lớn tuổi, hoặc cần một tỉ lệ vitamin D thích hợp với mức calcium tiêu thụ. Uống các viên bổ sung calcium cũng thế chứ chẳng riêng gì uống sữa.

PV: Tóm lại, xin ông chốt lại vấn đề, có nên uống sữa bò không? Các cháu nhỏ như bé nhà tôi đang tuổi lớn, rất cần nguồn canxi để phát triển thì có nên tiếp tục uống sữa không?

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Thực phẩm nào cũng có hai mặt: lợi và hại. Các chất phản dinh dưỡng trong các loại rau quả củ, chất chát tanin trong trái cây, nitrate trong các loại rau đấy…Nhưng rau củ quả ngũ cốc nguyên hạt vẫn được xem là thực phẩm lành mạnh.

Ngay cả nguy cơ của thịt đỏ liên quan đến ung thư đã được khoa học cảnh báo, nhưng khoa học cũng chỉ khuyên nên ăn ít lại, vì mặt lợi của thịt đỏ cũng đâu phải là ít.

Sữa bò cũng thế. Mặt lợi của sữa bò đó là nguồn protein khá hoàn hảo, rồi các khoáng calcium, magnesium, potassium, manganesium… và các vitamin rất phong phú nữa…Lợi ích thấy rõ, nhất là với trẻ em đang tuổi lớn.

Sữa bò có thực sự là nguyên nhân gây ung thư? Đừng nghe lời đồn, hãy nghe chuyên gia nói – Ảnh 4.
Và mặt bất lợi của sữa bò đó là những nguy cơ chưa được chứng minh rõ ràng, như ung thư, béo phì, tim mạch, dậy thì sớm..

Vậy thì có nhất thiết phải bỏ đi cái “rõ ràng” để chạy theo cái “chưa rõ ràng” để tẩy chay sữa bò không?

Nghiên cứu về thực phẩm có hại hay không có hại là điều không dễ dàng, và không phải kết quả nào cũng có độ tin cậy như nhau.

Một số người đã “hùng biện” về đủ mọi góc cạnh bất lợi của sữa bò, theo kiểu con kiến cũng không tha.

Bất chấp những mặt lợi ích của sữa, họ chỉ lựa ra những kết quả nghiên cứu hỗ trợ cho chủ kiến riêng, biến những rủi ro thành hiện thực, biến mối liên hệ thành nguyên nhân. Đó không phải là thái độ sòng phẳng về mặt khoa học.

Sữa bò không phải nguồn thực phẩm duy nhất đối với người lớn, không phải như con bê chỉ bú sữa bò, hay em bé chỉ bú sữa mẹ.

Sữa bò tốt nhất cho con bê, chứ không phải tốt nhất cho con người. Bây giờ con người “giành” uống sữa bò với con bê, và đòi hỏi sữa bò phải là thực phẩm hoàn hảo, tốt nhất cho mình là điều không thể.

Sữa bò cũng như bao loại thực phẩm khác mà chúng ta ăn. Do đó, cần cân nhắc mặt lợi và hại của sữa bò, và sử dụng chừng mực.

Đây là điều mà trong dinh dưỡng học gọi là ăn uống cân bằng, nay thứ này mai thứ khác, chứ không phải cứ uống mỗi ngày vài ba ly sữa, ăn vài cân thịt bò là khỏi lo gì về suy dinh dưỡng. Dư thừa dinh dưỡng (overnurition) cũng là một hình thức suy dinh dưỡng (malnutrition).

Một ngày 3 ly sữa bò có thể là nhiều, nhưng một ly sữa mỗi ngày, hay vài ngày một ly thì có bị mắc họa ung thư hay dậy thì sớm như những cảnh báo hùng biện nào đó không? Rồi còn những sản phẩm từ sữa như yogurt, phó mát, bánh kem…

Chẳng lẽ chia tay tuyệt đối với những thực phẩm dính dáng tới sữa chỉ vì những rủi ro chưa được xác định rõ, mà bỏ qua ích lợi của chúng?

Cho đến nay chưa có cơ quan an toàn có thẩm quyền nào, hay viện nghiên cứu nào khuyến cáo, không nên uống sữa bò vì nguy cơ gây hại đến súc khỏe của con người. Vấn đề là khẩu phần ăn có hợp lý hay không, chứ không phải sữa bò là thực phẩm cần loại bỏ.

(0)